28 tháng 6, 2013

NHỮNG ĐIỀU NÊN GHI NHỚ TRONG CUỘC ĐỜI



Đây là Lá thư riêng của ông Tôn Vận Tuyền, Viện trưởng Viện Quốc Gia Hành Chánh,  Đài Loan gởi cho các con của ông lúc còn sống, bây giờ mới thấy lưu hành trên internet, được nhiều phụ huynh đọc.Mình vừa đọc và giới thiệu với các bạn:
" Các Con thân mến,
Viết những điều căn dặn này, Cha dựa trên 3 nguyên tắc :
1. Đời sống là vô thường, không ai biết trước mình sống được bao lâu, có những việc cần nếu được nói ra sớm để hiểu thì hay hơn.
2. Là cha của các con, nếu không nói ra thì chắc không ai nói rõ với các con những việc nầy đâu!
3. Đây là kết quả bao kinh nghiệm xương máu, thất bại đắng cay trong cuộc đời của bản thân mà Cha ghi nhận được. Nó sẽ giúp các con tránh được những nhầm lẫn oan phí trên con đường trưởng thành của các con.
Những điều nên ghi nhớ trong cuộc đời :
1. Nếu có người đối xử với con không tốt, đừng thèm để tâm cho mất thời giờ. Trong cuộc đời nầy, không ai có bổn phận phải đối xử tốt với con cả, ngoại trừ cha và mẹ của các con. Nếu có người đối xử tốt với con, ngoài việc các con phải biết ơn, trân quý, các con cũng nên thận trọng một chút, vì người đời thường làm việc gì cũng có mục đích của nó, chớ có vội vàng cho là bạn tốt của mình ngay.
2.  Không có người nào mà không thể thay thế được cả; không có vật gì mà nhất thiết phải sở hữu, bám chặt lấy nó. Nếu hiểu rõ được nguyên lý nầy, thì sau nầy trong cuộc đời, lỡ người bạn đời không còn muốn chung sống với con nữa hay vì lý do gì con bị mất đi những gì trân quý nhất trong đời con, thì cũng nên hiểu, đó không phải là chuyện trời sập.
3. Đời người ngắn ngủi, nếu hôm nay ta để lãng phi thời gian, mai đây hiểu được thì thấy rằng quãng đời đó đã vĩnh viễn mất rồi. Cho nên, nếu ta càng biết trân quý sinh mạng của mình càng sớm, thì ta được tận hưởng cuộc đời mình càng nhiều hơn. Đừng trông mong được sống trường thọ, chi bằng mình cứ tận hưởng cuộc đời mìmh ngay từ bây giờ.
4.  Trên đời nầy chẳng hề có chuyện yêu đương bất diệt. Ái tình chỉ là một cảm xúc nhất thời. Cảm giác tuyệt đối nầy sẽ theo thời gian, hoàn cảnh mà từ từ biến thiên, thay đổi. Nếu người yêu bất diệt rời bỏ con rồi, hãy chịu khó nhẫn nại một chút, để thời gian dần dần trôi qua, để tâm tư mình từ từ lắng đọng, cái đau khổ cũng sẽ từ từ nhạt nhòa đi. Không nên cứ ôm ấp cái ảo ảnh tình yêu  mãi, cũng không nên quá bi lụy vì thất tình.
5.  Tuy có nhiều người trên thế giới nầy thành công, nổi tiếng mà chẳng có học hành nhiều, có bằng cấp cao. Nhưng điều đó cũng không có nghĩa  không cần học hành nhiều sẽ thành công. Kiến thức đạt được do việc học hành, giáo dục là vũ khí trong tay của mình. Ta có thể lập nên sự nghiệp với bàn tay trắng, nhưng không thể trong tay không có tấc sắt. Nên nhớ kĩ điều nầy !
6. Cha không yêu cầu các con phải phụng dưỡng trong nửa đời còn lại của Cha . Ngược lại, Cha cũng không thể bảo bọc nửa quãng đời sau nầy của các con. Lúc các con đã trưởng thành, độc lập, đó cũng là lúc Cha đã làm tròn thiên chức của Cha. Sau nầy các con có đi xe Bus công cộng hay xe hơi, nhà các con ăn soup vi cá hay ăn mì gói, đều là trách nhiệm của các con.
7. Các con có thể yêu cầu mình phải giữ chữ TÍN, nhưng không thể bắt người khác phải giữ chữ TÍN với mình. Các con có thể yêu cầu mình phải đối xử TỐT với người khác, nhưng không thể kỳ vọng người khác phải đối xử Tốt với mình. Mình đối xử người ta thế nào, không có nghĩa là nguời ta sẽ đối xử lại với mình như thế ấy, nếu không hiểu rõ được điều nầy, sẽ tự chuốc lấy buồn phiền cho mình.
8.  Trong mười mấy, hai mươi năm nay, Cha tuần nào cũng mua vé số, nhưng vẫn nghèo trắng tay, điều nầy chứng minh: muốn phát đạt, phải siêng năng làm ăn mới khá được. Trên thế gian nầy không có cái gì miễn phí cả. Đôi khi ta cũng có may mắn gặp được người tốt giúp đỡ mà không đòi hỏi gì cả , nhưng hiếm lắm ! Đó là chuyện may rủi của cuộc đời ! 
9.  Sum họp gia đình, thân thích đều là duyên phận. Bất luận trong kiếp nầy chúng ta sống chung với nhau được bao lâu , như thế nào, nên trân qúy khoảng thời gian chúng ta được chung sống với nhau. Kiếp sau, dù ta có thương hay không thương, cũng không có dịp gặp lại nhau đâu.
Khó lắm đấy!
Nên kiếp này hãy cố sống tử tế với nhau !
Post: TQS

26 tháng 6, 2013

ĐỌC THÊM



Mời các bạn đọc Bài luận của Nguyễn Minh Hoàng, học sinh trường THPT Chuyên Khoa học Tự nhiên, thuộc Trường ĐH Khoa học Tự nhiên Hà Nội, viết gửi Trường Đại học FPT để tham gia chương trình học bổng Nguyễn Văn Đạo. - Báo chí đăng tải nhiều, nhưng mình thấy câu chuyện về em Minh Hoàng và nội dung bài luận hay trên nhiều phương diện nên muốn đẩy lên trang chính nhà mình để chúng ta cùng đọc và suy ngẫm. đtd
Để hiểu về một ai đó quả thật không phải chuyện dễ. Ngay tới chính bản thân họ, đôi khi họ cũng không thể hiểu nổi mình. Thực chất, để hiểu được bản thân mình không khó. Nếu chúng ta có những khoảng lặng, ngồi nghĩ về những gì đã qua, đánh giá về những việc mình đã làm, đó là hình ảnh chân thực nhất về bản thân. Vậy ta có thể thay đổi bản thân ta không? Bản thân ta không cố định, thế nên hoàn toàn có thể thay đổi. Cứ như vậy, càng trải nghiệm, sẽ càng hiểu bản thân hơn, bản thân gắn với cuộc đời này, sẽ càng hiểu cuộc đời hơn. Chúng ta sẽ biết rằng, cuộc đời này kỳ diệu vô cùng.
Tôi sinh ra không được khỏe mạnh như những người khác. Bệnh tật bám tôi dai dẳng ngay từ khi tôi có mặt trong cuộc đời này. Thật khó tin với một đứa trẻ sinh ra 3,1kg mà 6 tháng tuổi chỉ vỏn vẹn 4,5kg. Đến bây giờ, nhiều người vẫn nói rằng: “Nếu không phải là con của mẹ mày, thì mày chết lâu rồi!”. Bất hạnh phải không? Với tôi thì không, vì tôi biết được rằng tôi có một người mẹ tuyệt vời. Và cũng thật may mắn, đầu óc của tôi bình thường, được ăn học đàng hoàng, được sống trong một gia đình hạnh phúc. Như vậy, một chút bất hạnh trên chả là gì! Mà cũng cảm ơn nó vì nó mà tôi biết mẹ tôi yêu tôi nhất!
Ngày trước, mẹ cũng hay đánh mắng tôi. Chuyện đó xảy ra nhiều lắm, cũng thật khó mà thống kê hết được. Nghĩ lại thấy mình thật ngốc! Trước khi bị mắng thì tưởng mình đúng, mình hay lắm, nhưng khi bị mắng mới thấy tội lỗi chồng chất. Nhưng tôi biết mẹ muốn tốt cho tôi. Và vì thế tôi không bao giờ cãi lại mẹ tôi, dù chỉ một câu. Nếu như không có những trận mắng đó, thì cũng không có tôi bây giờ! Thật buồn vì nhiều người con lại nghĩ rằng mẹ không thương nó, rồi từ lòng tự tôn mù quáng ích kỷ, mà thành những ngã rẽ cuộc đời! Chỉ từ một việc thôi, việc suy nghĩ và đánh giá khác nhau sẽ dẫn đến những hành động khác nhau, và từ đó dẫn đến những số phận cuộc đời khác nhau. Việc quyết định thế nào là ở mình!
Với một cậu con trai tinh nghịch, thích khám phá và tư duy thì toán học là một môn học được ưa chuộng. Với tôi không phải ngoại lệ. Và sau những cố gắng hồi cấp 2, tôi đã thi được vào trường THPT chuyên Khoa học tự nhiên, một trường có thể nói là khá danh giá và nổi tiếng. Tôi được ở ký túc xá, được tiếp xúc với cuộc sống tự lập. Ở đây, tôi biết rất nhiều người, và biết được rất nhiều những cảnh đời khác nhau, và cả những cách đánh giá khác nhau về cuộc đời mình. “Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”. Nhưng tóm lại, đa số họ không thấy thoải mái trong cuộc sống. Có nhiều nguyên do lắm! Có thể là do cuộc sống gia đình, có thể do học tập, hay do những gì không may xảy đến. Và họ đổ lỗi cho cuộc đời, cho số phận, cho người khác…
Có phải cuộc đời quá bất công với họ không? Sao lại nhiều người bị cuộc đời bất công như thế? Từ lúc sinh ra, quả thật không phải ai cũng giống ai. Có nhiều người sinh ra trong nhà giàu, có người sinh trong nhà nghèo, có người khỏe mạnh, có người ốm yếu, tật nguyền… Cuộc đời bất công vậy sao? Không! Cuộc đời không bất công, thực tế rất công bằng. Cuộc sống này chỉ là một sau bao nhiêu cuộc sống khác. Những gì đang hiện diện là hệ quả của chuỗi thời gian phía trước. Nhưng không nói về những gì đã xảy ra trước đó, vì chúng đã qua rồi. Hãy coi như ngay lúc này đây là khởi điểm và việc của chúng ta là vẽ tiếp đường đời phía trước, tùy thuộc vào suy nghĩ và hành động của chính mình.
Có một điều rất đơn giản, cái gì phù hợp với mình thì sớm hay muộn cũng đến với mình, còn những gì không phù hợp với mình thì dù cố gắng giữ nó cũng đi mất. Một người nghèo với đầu óc kinh doanh giỏi thì sẽ trở nên giàu, và khi giàu anh ta có thể quản lý đồng tiền do anh ta kiếm. Một cậu công tử được để lại một tài sản kếch xù, nhưng không biết cách sử dụng, rồi ăn chơi thì phá sản là điều tất yếu. Một người tốt thì được nhiều người quý. Người xấu thì bị coi thường…
Thế giới không thể thay đổi, vì thế ta phải thay đổi chính bản thân mình. Cũng có những lúc cảm thấy cuộc sống không hạnh phúc hay thấy khó chịu, nhưng nếu không có điều xấu thì cũng không có điều tốt, không có tối thì cũng không có sáng. Những điều đó luôn tồn tại song song, nhìn về một sự việc nghĩ nó là tốt cũng đúng, nghĩ là xấu cũng đúng, điều quan trọng là mình nghĩ về nó ra sao. Nếu luôn thấy được niềm hạnh phúc ngay trong những gì mình đang có, thì chúng ta sẽ luôn thấy hạnh phúc.
Cuộc đời thật kỳ diệu. Điều kỳ diệu đó đến khi ta tích cực. Chính một suy nghĩ tích cực sẽ dẫn đến một hành động tích cực; một hành động tích cực sẽ dẫn đến một thói quen tích cực; một thói quen tích cực sẽ dẫn đến một cuộc đời tích cực. Chìa khóa của chiếc hòm cuộc đời kỳ diệu nằm ngay lúc này, ngay trong suy nghĩ của chính mình.

25 tháng 6, 2013

GẶP MẶT DÂU RỂ LỚP SỬ K6 ĐHTH HUẾ 2013

Thông báo họp Lớp cùng dâu rể SKS ở Quảng Bình


Thực hiện Nghị quyết 02 ngày 15/7/2012 của SKS-ĐH THH, Ban cán sự SKS thông báo chương trình họp Lớp năm 2013 như sau:
- Địa điểm: Quảng Bình
- Thời gian: 2 ngày (thứ bảy và chủ nhật, ngày 27 và 28/7/2013- nhằm ngày Giáp Ngọ 20 và Ất Mùi 21 tháng 6 âm lịch)
- Kinh phí: mỗi người 1.000.000 đồng (một triệu đồng). Các bạn có điều kiện kinh tế khá, có thể đóng tiền trên 1 triệu thì càng tốt.
- Phương tiện đi lại từ nhà đến Quảng Bình, mỗi gia đình tự lo.
- Thời gian đăng kí: từ ngày 22/4/2013 đến ngày 27/6/2013 (Từ 27/6 đến 27/7/2013: BTC sắp xếp công việc)
- Địa chỉ đăng kí: Blog SKS
- Chương trình họp mặt và liên hoan văn nghệ sẽ được đăng trên Blog SKS sau khi tham khảo ý kiến của Bí thư chi đoàn NMN
- Đề nghị các thành viên SKS tham gia thiết kế chương trình để cuộc gặp mặt đạt kết quả.
Rất mong từng thành viên SKS có ý kiến  và tự mình ghi tên vào Danh sách đăng kí. Cũng mong các bạn sắp xếp công việc để cả vợ chồng cùng đi dự họp Lớp.
- Danh sách thành viên tham gia:
1) Vợ chồng TQS
2) Vợ chồng TA
3) Vợ chồng HN-VMD ( VMD đã điện thoại cho TQS nhờ đăng kí )
4) Vợ chồng NMN
5) Vợ chồng TBN
6) Vợ chồng ĐTD
7) Vợ chồng TQT ( Ai đăng kí cho vc TQT, đề nghị ghi rõ )
8) Vợ chồng NHL ( Đề nghị NHL ghi vài dòng vào Phần nhận xét để biết  có đi hay không? )
9) Vợ chồng NHÂ ( Đề nghị NHÂ ghi vài dòng vào Phần nhận xét để biết có đi hay không? )
10) Vợ chồng NVN ( NVN nhờ TQS đăng kí lúc 10h30 ngày 26.6, có đem theo một chai rượu ngon)

                                                                 Thay mặt Ban cán sự Lớp SKS:
                                                                           Lớp trưởng: TQS

18 tháng 6, 2013

MỜI CÁC BẠN VỀ ĐÂY DỰ HỘI !

Các bạn SKS thân mến!

Trong suốt 8 ngày đêm (19-26/6/2013), Hội An nhà mình đăng cai tổ chức một số sự kiện quốc gia và quốc tế hứa hẹn sẽ rất hấp dẫn. Nếu có điều kiện thuận lợi, mời các bạn đến dự xem (và nhân tiện ghé nhà mình chơi) nhé!
1. Hội thi hợp xướng quốc tế lần thứ 3, gồm 15 đoàn nghệ thuật của 7 quốc gia, diễn ra từ 19-22/6 tại Vườn tượng An Hội, khách sạn Hội An.
2. Trưng bày và biểu diễn “Không gian di sản văn hóa Việt Nam và ASEAN”, gồm 23 tỉnh, thành phố trong nước, 8 nước ASEAN và Hàn Quốc, diễn ra từ 19-26/6 tại Vườn tượng An Hội.
3. Khai mạc “Festival di sản Quảng Nam lần thứ 5 từ 20h ngày 22/6 tại Nhà hát Hội An.
4. Chung kết cuộc thi “Hoa hậu các dân tộc Việt Nam” với 67 thí sinh và lễ bế mạc “Festival di sản Quảng Nam” từ 20h ngày 26/6 tại Nhà hát Hội An.
5. Liên hoan nghệ thuật dân gian các vùng miền toàn quốc, với 16 đoàn nghệ thuật trong nước tham gia, diễn ra từ 22-26/6 tại nhiều nơi trong thành phố.
6. Carnaval “Hội tụ sắc màu di sản” (diễu hành và biểu diễn đường phố) với hơn 1.500 nghệ sĩ của các đoàn nghệ thuật trong nước và quốc tế, các ứng viên hoa hậu các dân tộc Việt Nam, diễn ra từ 17h-18h ngày 22/6 tại khu phố cố Hội An.

Rất mong được gặp lại các bạn trong dịp lễ hội này! (TA)


17 tháng 6, 2013

Triết học nhẹ nhàng của Trịnh Công Sơn


 
Dưới đây là một bài viết về âm nhạc Trịnh Công Sơn qua cái nhìn tinh tế, thấu hiểu của John C. Schafer – một người Mỹ mà qua con đường nghiên cứu và tiếp xúc văn hóa đã trở về với văn hóa Việt.
John C. Schafer
Trịnh Công Sơn
Trịnh Công Sơn
Đạo Phật với Trịnh Công Sơn là hơi thở là triết học làm cho con người yêu đời hơn chứ không phải là lãng quên sự sống.
Đạo Phật đến với Ông qua nếp sống gia đình, và rồi đi vào âm nhạc của ông ngày càng sâu sắc hơn qua sự trải nghiệm thăng trầm giữa cuộc đời này.
Trịnh Công Sơn có viết: “Tôi vốn thích triết học và vì thế tôi muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình. Một thứ triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được”. Bài này sẽ trình bày rằng thứ “triết học nhẹ nhàng” này chính là triết học Phật giáo.
Trong Tứ Diệu Đế của đạo Phật, chân lý đầu tiên là khổ đế. Khổ đế là một đề tài rất phổ thông trong nhạc Trịnh Công Sơn: Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người, ông đã hát trong Gọi tên bốn mùa. Cuộc đời đầy khổ và buồn vì không có gì trường cửu cả. Theo Kinh Kim Cương, Tất cả các pháp hữu vi là “như sương mai, như ánh chớp”. Đây là một ý niệm mà Trịnh Công Sơn đã nhắc đi, nhắc lại trong nhiều lời ca của mình. Giống như con chim ở đậu cành tre và một con cá . . . trong khe nước nguồn, không ai trong chúng ta là những người định cư vĩnh viễn, tất cả đều là những người ở trọ trần gian này. Trong khi tạm cư ở chốn trần gian này chúng ta tìm chỗ ẩn náu trong tình yêu, nhưng rồi tình yêu cũng mất đi.
Tình yêu như tất cả mọi sự khác đều vô thường như Trịnh Công Sơn đã viết trong bài Đóa hoa vô thường và nhiều bài ca khác. Các bài tình khúc của Trịnh Công Sơn là những lời tuyên bố siêu hình rằng những đổ vỡ tình yêu không phải là những chông gai nho nhỏ trên con đường đời đẹp đẽ vô song. Các bài tình khúc của Trịnh Công Sơn, như Hoàng Phủ Ngọc Tường nói, là những “bài kinh cầu bên vực thẳm”. Các bài ca này là những lời nhắc nhở cho chúng ta về lẽ vô thường.
Một đề tài Phật giáo khác trong nhạc Trịnh Công Sơn là thuyết luân hồi. Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi / Để một mai tôi về làm cát bụi, ông hát trong Cát bụi. Hay Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ khô, trong Rừng xưa đã khép. Trong các ca khúc của mình Trịnh Công Sơn có vẻ đồng ý với đạo Phật rằng “Hiện tại là hình bóng của quá khứ và tương lai là hình bóng của hiện tại”.
Trịnh Công Sơn cũng tỏ ra chấp nhận thuyết luân hồi của nhà Phật trong những câu mà Trịnh Công Sơn đã làm nhòa nhạt biên giới giữa đi và về, như trong bài Phôi pha: Có những ai xa đời quay về lại / Về lại nơi cuối trời. Nếu chết là để đi đến tái sinh thì khi ta ra đi nghĩa là ta trở lại. Nhìn sống và chết cũng như nhìn nước chảy trên sông và tự hỏi nước đang ra đi hay nước đang trở về. Đó là ý của Trịnh Công Sơn trong Gần như niềm tuyệt vọng: Những ngàn xưa trôi đến bây giờ / Sông ra đi hay mới bước về.
Theo đạo Phật không có cái ta trường cửu nhưng mà có một chút gì trong cái ta đã mất được tiếp nối trong cái ta tái sinh. Quá trình này thường được so sánh như khi ta thắp một cây nến từ một cây nến khác, có cái ra đi và cũng có cái trở lại, một cõi đi về như Trịnh Công Sơn đã viết trong bài ca cùng nhan đề.
Một ảnh hưởng khác của Phật giáo trong ca khúc của Trịnh Công Sơn là sự mập mờ và siêu lý luận của các câu văn. Nhạc, lẽ dĩ nhiên là tiếng nói của con tim không phải là của lý trí nhưng sự xác định này cũng chưa đủ dể giải thích tại sao Trịnh Công Sơn có vẻ như không muốn làm cho lời ca rõ ràng. Tôi nghĩ rằng đây là ảnh hưởng của Phật giáo, rằng người ta không thể chỉ ngồi mà lý luận để đi đến một sự bình an cho tâm hồn, rằng ý niệm giác ngộ vượt qua biên giới của ngôn ngữ và lý luận.
Cái mập mờ danh tiếng của Trịnh Công Sơn là do sự phá bỏ biên giới giữa các điều mà chúng ta thường xem là khác biệt, một phương pháp mà Cao Huy Thuần gọi là “đối hợp”. Trịnh Công Sơn hay dùng lối văn đối nghịch, một nghệ thuật ngôn ngữ hay dùng để nhấn mạnh sự khác nhau của hai điều, nhưng ngược lại, Trịnh Công Sơn hay đem đối nghịch làm trùng hợp như trong các câu này: Tình không xa nhưng không thật gần; Không xa đời và cũng không xa một người; Một phố hồng một phố hư không.
Trịnh Công Sơn giống như một nhà thiền sư phủ nhận rằng tuyết thì trắng, quạ thì đen, với mục đích nói lên rằng muốn giác ngộ thì phải tránh xa cái đối lập giữa “có” và “không” để thành một tổng thể hài hòa. Lời ca của Trịnh Công Sơn giống như các công án trong Phật giáo, chẳng hạn như công án nổi tiếng nói về lắng nghe tiếng vỗ của một bàn tay, và cũng giống như công án, bài hát của Trịnh Công Sơn không thể giải thích được bằng đầu óc.
Khi nói về triết lý trong nhạc Trịnh Công Sơn chúng ta cũng cần nói tới ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh nữa. Các bạn thân của Trịnh Công Sơn xác nhận rằng, ông cũng như một số đông các nhà trí thức miền Nam vào cuối thập niên năm mươi và đầu thập niên sáu mươi, rất bị lôi cuốn bởi chủ nghĩa hiện sinh.
Thái Kim Lan bảo rằng: ở Huế hồi đó nhiều người nói về lo âu (angst), hư vô (nothingness), nôn mửa (nausea) và nỗi hoài công phi lý của Sisyphus. Nguyễn Văn Trung hồi đó mới từ Bỉ về, theo Bửu Ý là “nòng cốt” của các cuộc tranh luận về triết lý tại Huế. Nguyễn Văn Trung viết nhiều bài về hiện sinh và đăng trong tạp chí Đại Học, do ông làm chủ nhiệm.
Các bạn của Trịnh Công Sơn bảo rằng ông rất ham đọc sách của Camus về huyền thoại Sisyphus. Các bạn này cũng bảo Trịnh Công Sơn rất thích các phim trong đó có tài tử James Dean đóng vai của một người lưu lạc cô đơn. Chúng ta thấy hình ảnh chàng cô đơn này trong nhiều bài của Trịnh Công Sơn trong đó có bài Dã tràng ca. Trong bài này Trịnh Công Sơn muốn so sánh mình với Sisyphus, qua một hình ảnh đã được Việt Nam hóa là con dã tràng suốt ngày “xe cát biển đông” trong Nghe thân lưu đày.
Trong cuốn Huyền thoại Sisyphus, Camus nói: trong cái thế giới phi lý này, chúng ta thường hay bị quyến rũ bởi hai cách trốn thoát: một là tự vấn thân xác, hai là tự vẩn triết lý, tức là nuôi dưỡng niềm hy vọng rằng mình sau này khi chết đi sẽ được lên chốn thiên đàng vĩnh cửu. Theo Camus, chúng ta phải từ chối hai con đường giải thoát này và phải chọn một con đường khác: con đường chống đối thế giới phi lý này giống như nhân vật Sisyphus trong huyền thoại vậy.
Ông Nguyễn Văn Trung đã giải thích thuyết của Camus theo một cách khác. Ông viết về tự vẫn triết học như thế này: “Hy vọng một đời khác, hoài niệm một quê nhà sau tù đầy là một cách phủ nhận tình trạng phi lý khác, mà không chấm dứt được phi lý. Camus gọi những giải pháp thoát ly đó là một tự vẫn triết lý (Suicide philosophique)”. Nguyễn Văn Trung cho rằng, theo Camus, chúng ta phải chấp nhận rằng “Tù đày chính là quê nhà”.
Rất có thể Trịnh Công Sơn đã bị ảnh hưởng của Camus qua cách giải thích của Nguyễn Văn Trung. Giáo sư Trung đã Việt Nam hóa lý thuyết về lưu đày và thiên đàng vĩnh cửu của Camus. Lời giải thích của Nguyễn Văn Trung đã làm lẫn lộn hoài vọng về một cõi thiên đàng trong kiếp sau với hoài vọng về quê nhà.
Trịnh Công Sơn quả thật đã bị lôi kéo từ hai dòng lực tù đày và quê nhà. Nhiều đêm muốn đi về con phố xa / Nhiều đêm muốn quay về ngồi yên dưới mái nhà, ông đã hát trong Lời thiên thu gọi. Nhưng vì đã được uốn nắn trong một nền văn hóa mà trong đó tình yêu quê nhà đóng một vai trò rất mạnh, Trịnh Công Sơn đã không do dự chọn quê nhà. Ông đã hát Chân đi xa trái tim bên nhà, trong Có nghe đời nghiêng và Tìm thấy nỗi nhớ từ mỗi chiếc lá / Góc phố nào cũng thấy quê nhà trong Tình yêu tìm thấy.
Do đó ta thấy Trịnh Công Sơn không chấp nhận sự nổi loạn chống lại thế giới phi lý như Camus đã cổ võ. Trịnh Công Sơn không thể nào chọn lưu đày làm nơi quê nhà. Tù đày theo Trịnh Công Sơn không phải là sự nổi loạn hiện sinh mà là sự nhìn nhận của một người con Phật trước nỗi khổ và tính cách tạm bợ của cuộc đời: Còn bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây Trịnh Công Sơn hỏi trong Phúc âm buồn. Còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này.
Hiện sinh khuyến khích cá nhân đứng lên một mình để chống lại xã hội và văn hóa. Phật giáo, ngược lại, dạy thuyết vô ngã, dạy rằng không có gì khác biệt giữa ta và tha nhân, rằng mọi sự mọi việc trên đời đều hỗ tương ảnh hưởng vào nhau. Tôi tin rằng Trịnh Công Sơn có ý nói đến thuyết vô ngã trong các bài ca của ông. Ông có nói đến “phụ người” như trong bài Ru em nhưng cái buồn của ông thật ra cũng là cái buồn của nhân thế. Yêu em yêu thêm tình phụ / Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ (Ru em). “Từ bi” có nghĩa là tâm từ (maitri) và tâm bi (karuna), hai đức hạnh mà theo Phật giáo mình nên tu dưỡng.
Lúc mới bắt đầu sự nghiệp, Trịnh Công Sơn cũng như nhiều thanh niên trí thức khác tại miền Nam, thích bàn luận về thuyết hiện sinh. Triết lý nói chung và thuyết hiện sinh nói riêng hồi đó là một đề tài rất phổ thông trong giới trẻ. Các bài hát đầu của Trịnh Công Sơn đã đáp ứng được nguyên vọng này của giới trí thức miền Nam. Phật giáo và hiện sinh quả thật có gần nhau ở một vài điểm. Cả hai đều tin rằng con người phải đối diện với cái chết và với ý niệm hư vô trước khi có thể thực sự sống một đời sống đích thực.
Trịnh Công Sơn lúc mới vào nghề nổi tiếng vì đã “chịu chơi” với thuyết hiện sinh nhưng theo tôi Trịnh Công Sơn đã sáng tác nhạc của mình dựa trên các đề tài của Phật giáo. Nếu hồi đó ít ai để ý tới cái tính cách Phật giáo trong các bài của ông, có thể là vì Phật giáo và hiện sinh gặp nhau ở một vài điểm và người ta chỉ để ý đến khía cạnh hiện sinh mà thôi. Tuy nhiên lý do chính vì sao Trịnh Công Sơn vẫn tiếp tục thành công trong một thời rất dài là vì những ưu tư có tính cách rất Phật Trịnh Công Sơn đã gởi gắm trong lời ca của mình.
Nghe nhạc Trịnh Công Sơn đối với nhiều người Việt cũng gần giống như nghe một câu kinh. Nhạc Trịnh Công Sơn khó hiểu nhưng lời ca của ông có khả năng xoa dịu những tâm hồn bị dao động.
Theo Văn Hóa Phật Giáo.
Post: TQS

12 tháng 6, 2013

Lưu Hữu Phước & mối tình dành cho cô gái Huế

  
Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước - Ảnh: nhantai.thv.vn

HƯƠNG CẦN
     
(Chuyện ít ai biết trong làng âm nhạc)

Nhạc sỹ, Giáo sư viện sỹ Lưu Hữu Phước (1921-1989) là tác giả của rất nhiều hành khúc nổi tiếng. Với tài năng của mình, từ bài hát này đến bài hát khác, ông đã góp phần nuôi dưỡng những phong trào cách mạng to lớn.

Những bước đi rầm rộ của hàng vạn, hàng triệu đồng bào theo nhịp hát “Lên đàng”, “Tiếng gọi thanh niên”, “Học sinh hành khúc”... trước đây và sau này là “Giải phóng miền Nam”, “Tiến về Sài Gòn”... đã làm rung chuyển cả đất nước. Phải nói rằng âm nhạc Lưu Hữu Phước đã có sức mạnh động viên, cổ vũ phi thường...

Thế nhưng Lưu Hữu Phước không chỉ có những hành khúc vang dội. Ông cũng có những tình ca cháy bỏng như “Trên Sông Hương”, “Ai nhớ ai”... Một điều ít ai biết là con người tài hoa ấy đã từng có một mối tình đầu đầy bí hiểm với một người con gái Huế.

Lá thư của người không quen biết

Đầu năm 1943, lúc bấy giờ nhạc sỹ Lưu Hữu Phước đang học ở Hà Nội nhưng cũng đã nổi tiếng với các bài hát của mình như “Tiếng gọi thanh niên” (1941), “Bạch Đằng Giang” (1941), “Hội nghị Diên Hồng” (1942)... Một hôm ông đang phổ nhạc cho vở nhạc kịch thơ Tục lụy (nay gọi là Trần duyên) của Thế Lữ thì nhận được một là thư gửi từ Huế, ký tên Thu Hương.      

Đó là lá thư của cô gái Huế mà Lưu Hữu Phước chưa hề quen biết. Người viết lá thư ấy tỏ lòng ngưỡng mộ tài năng của nhạc sỹ trẻ, ca ngợi bài hát “Ta cùng đi” và ngõ ý muốn trao đổi thư từ với nhạc sỹ. Có một điều đáng nói là trước đó cũng có nhiều cô gái viết thư tỏ tình, mến mộ... song đều không được Lưu Hữu Phước để tâm đến. Thế nhưng tự nhiên nhận được lá thư này, bỗng nhiên Lưu Hữu Phước đâm ra nghĩ ngợi. Nhớ lại chuyện này, người bạn thân của ông là nhà hoạt động cách mạng Mai Văn Bộ kể: “Tôi tò mò hỏi Phước: ”-Phước nghĩ xem, tại sao Thu Hương ca ngợi bài “Ta cùng đi” mà không ca ngợi bài hát nào khác của Phước? ”Phước nói ngay: ”- Thu Hương đề nghị cùng trao đổi ý kiến về cả hai phương diện nghệ thuật và tư tưởng. Chưa có bức thư nào khác có nội dung như thế cả!” Câu trả lời của Phước bật ra như có sẵn trong đầu, khiến tôi chợt hiểu: thì ra Phước đã nhìn thấy ở Thu Hương một cô gái trình độ, có bản lĩnh và chưa chi đã có sự cảm thông, đồng tình, đồng điệu với nhau rồi! Phước ngồi thừ ra. Lần đầu tiên tôi thấy Phước trong tư thế đó. Phải chăng Phước đang nghĩ về cố đô và đang lắng nghe tiếng hò trên sông Hương, như 7 năm về trước, khi Phước còn là một học sinh của trường Collège Cần Thơ? Thôi, Thần lương tâm (biệt danh của Lưu Hữu Phước - người viết) mắc bệnh tương tư rồi. Và từ đó, tôi gọi gác trọ của chúng tôi là ‘‘Gác TT”...

Từ đó, Lưu Hữu Phước thư đi thư lại với người con gái Huế có tên là Thu Hương mà Phước chưa một lần gặp mặt.

Huế - không phải là điểm hẹn tình yêu

Khoảng đến cuối năm 1943, Hà Nội bị bom đạn dữ dội, trường đại học đóng cửa, Lưu Hữu Phước cùng nhóm bạn bè thân là Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ (sau này cùng với Lưu Hữu Phước và một số người khác lập nên nhóm Hoàng Mai Lưu nổi tiếng) rời Hà Nội trở về Nam. Họ trở về bằng xe lửa. Bỗng nhiên khi tàu dừng ở Ga Huế, Lưu Hữu Phước xách va-li xuống xe và tuyên bố sẽ ở lại Huế để đi tìm Thu Hương. Những người bạn đồng hành rất ngạc nhiên, Huỳnh Văn Tiểng can ngăn song không thể thay đổi ý định của Lưu Hữu Phước.

Một sinh viên tên là T đã đón Lưu Hữu Phước rồi đưa đi tìm người con gái mà những cánh thư mỏng manh đã từng làm nhạc sỹ mất ăn, mất ngủ. Theo địa chỉ của Thu Hương ghi cho, Phước và T dẫn nhau đi tìm. Hồi đó thành phố Huế chưa mở rộng như bây giờ, chỉ nhỏ như bàn tay con gái, những tưởng đi tìm nhà người đẹp sẽ dễ dàng song rốt cuộc lại không hề như thế. Bởi vì khi tìm đúng tên đường, lần theo số nhà, nhưng chưa đến số nhà Thu Hương ghi cho trong thư hẹn hò thì đã hết ngõ đường. Hỏi những người trong xóm đó thì ai cũng lắc đầu:”- Không có Thu Hương nào ở đây cả”. Không tìm ra người đẹp mình từng mộng tưởng, hẹn hò mà trời Huế đã về chiều. Quá thất vọng trong bóng chiều buông, chàng nhạc sỹ cảm thấy như mình đang đứng ở “ngõ cụt Liêu Trai” ngay trên xứ Huế. Bí quá, Lưu Hữu Phước đành nghe theo lời T ở lại nhà người quen của T để đi thăm Huế một tuần.

Bài tình ca đầu tiên     

Thay vì gặp một Thu Hương, nhạc sỹ Lưu Hữu Phước đã gặp nhị Kiều xứ Huế lúc bấy giờ là L.L và L.Đ, cả hai đều là em của T. Nghe chàng sinh viên kiêm nhạc sỹ nổi tiếng Lưu Hữu Phước đang có mặt ở nhà L.L và L.Đ, khoảng trên ba mươi nữ sinh Huế đã tìm đến và thế là đã từng diễn ra một cuộc trình diễn nhạc Lưu Hữu Phước ở Huế cách đây 67 năm. Trước những tà áo tím ngưỡng mộ mình, nhạc sỹ Lưu Hữu Phước đã hứng khởi giới thiệu một số bài hát như “Bạch Đằng Giang”, “Hồn tử sỹ” và không thể thiếu bài “Ta cùng đi” đã từng làm nên duyên nợ với Huế của chàng trai Nam bộ.

Những ngày sau đó, T đưa nhạc sỹ Lưu Hữu Phước thăm viếng các lăng tẩm hoàng cung, đi thuyền sông Hương và có lần L.L cùng L.Đ đưa Lưu Hữu Phước đi thăm quê ở ngoại ô thành Huế. Không tìm thấy Thu Hương ở Huế, nhưng tình cảm của chị em L.L, L.Đ đã làm cho Lưu Hữu Phước khuây khỏa. Mơ hồ như trong số họ có bóng dáng của Thu Hương.

Bút tích bản "Hương Giang dạ khúc" của Lưu Hữu Phước tặng Thu Hương

Những ngày vui qua nhanh, nhạc sỹ Lưu Hữu Phước từ biệt Huế mà lòng biết bao lưu luyến, trong tim canh cánh một nỗi niềm “Thu Hương-nàng là ai?”. Trở về Nam, nhạc sỹ đã sáng tác bài tình ca đầu tiên “Hương giang dạ khúc” theo phong cách dân ca Huế. Từ Sài Gòn, bài tình ca đã được gửi ra Huế cho Thu Hương, đồng thời cho cả L.L và L.Đ. Cô em L.Đ đã dành giữ bức thư, còn người chị L.L đằm thấm hơn thì giữ lấy phong bì có đóng dấu bưu điện Sài Gòn. Bài “Hương giang dạ khúc” có rất nhiều từ “hương”, như vừa để nhắn gửi đến nàng Thu Hương, vừa gửi về xứ sở đã để lại trong tâm hồn nhạc sỹ nhiều ấn tượng quá đẹp. Trong đó có những câu da diết: “Làn hương thu mờ trong bóng chiều, vờn run ánh ngà, nhẹ đưa đưa xa... Làn hương ơi! Làn hương mờ xóa bóng ai yêu kiều trong mơ...”

Năm 1944, Mặt trận Việt Minh kêu gọi, lệnh chuẩn bị khởi nghĩa đến với những người sinh viên yêu nước. Lưu Hữu Phước hát vang bài “Xếp bút nghiên”, bỏ học đi về Nam. Trước khi lên đường, chàng nhạc sỹ Lưu Hữu Phước thức suốt đêm đốt hết tất cả những bức thư của Thu Hương cùng các thư từ kỷ vật đã lưu niệm từ mười năm qua. Không chỉ thế, khi về ngang Huế, nhạc sỹ đã cắt một đoạn bài hát “Xếp bút nghiên” gửi cho Thu Hương theo địa chỉ “Ngõ cụt Liêu Trai” mà mình đã đến tìm nhưng không gặp người. Đoạn cắt ấy là: “Hèn thay đời nhàn cư! Hèn thay vui yêu đương! Lúc quê hương cần người. Dứt làn tơ vương”... Những lời ấy nói thay cho nhạc sỹ một quyết tâm cắt đứt mối tình đầu để lên đường tranh đấu...

Thu Hương - nàng là ai?

Những tưởng câu chuyện đến đó là kết thúc, thế nhưng mọi chuyện về người con gái xứ Huế bí hiểm mang tên Thu Hương đã dần dần sáng tỏ vào một ngày của năm 1948. Mai Văn Bộ kể lại, lúc ấy ông đang hoạt động bán công khai ở Sài Gòn - Chợ Lớn thì có người phụ nữ tìm đến gặp, tự giới thiệu là L.L. “Nàng có khuôn mặt hơi dài, trán cao, một cái nhìn rất sâu và rất tri thức sau cặp kính trắng”- Mai Văn Bộ tả. Rất tự nhiên, L.L cho biết là nàng đã có chồng và đang làm ăn buôn bán ở Sài Gòn, Hương Cảng, Singapore. Quanh co một hồi, L.L hỏi tin tức của Lưu Hữu Phước. Mai Văn Bộ cho biết là nhạc sỹ đang ở Việt Bắc và chưa có vợ. Ông nhớ là ông nhấn mạnh Lưu Hữu Phước chưa có vợ và cảm thấy như L.L muốn nói điều gì đó song lại thôi, vội vàng từ giã ra về. Ông Mai Văn Bộ đưa tiễn người đẹp ra ngõ, thế nhưng khi về đến nhà, ông mới giật mình vì một câu hỏi xoáy lên: “L.L có phải là Thu Hương không?”. Ông vội chạy ra ngõ tìm nhưng muộn mất rồi, không còn thấy bóng người đâu cả.

Sau Hiệp định Geneve, nhóm Hoàng Mai Lưu găp nhau ở Hà Nội. Lưu Hữu Phước kể cho mọi người nghe là năm 1946, nhạc sỹ đã gặp L.L ở Hà Nội. Lúc ấy nàng đã có chồng, thế nhưng L.L không những vẫn giữ thái độ thân tình của người quen cũ, mà còn tích cực giúp nhà xuất bản Hoàng Mai Lưu II ấn hành một số bài hát, trong đó có bài “Hương giang dạ khúc” của nhạc sỹ không tên, tặng cô Thu Hương. Nghe chuyện L.L tìm gặp Mai Văn Bộ, Lưu Hữu Phước thở dài: “Yêu người trong mơ, gặp người cụ thể, chưa biết hẹn hò gắn bó thì người ta đã đi lấy chồng”.

Nói vậy nhưng có phải L.L đã núp dưới tên Thu Hương để mê hoặc Lưu Hữu Phước không? Câu hỏi ấy vẫn chưa dễ dàng kết luận.

Câu trả lời chỉ đến 18 năm sau đó, vào năm 1961. Ông Mai Văn Bộ kể: “Tháng 8 năm 1961, Trần Văn Khê dự Hội nghị Âm nhạc của Hội quốc tế nghiên cứu Âm nhạc (S.I.M) tại New York. Gần địa điểm Hội nghị, có một tiệm ăn Việt Nam. Thấy Khê đến, hai vợ chồng chủ tiệm đón tiếp rất niềm nở. Trước ngày Khê rời New York, hai vợ chồng, nhất là người vợ khẩn khoản mời Khê ăn một bữa bánh khoái, vì hai vợ chồng đều là người Huế.

Sau bữa ăn, người vợ tự giới thiệu là L.L. và hỏi Khê có còn nhớ bài hát “
Hương Giang dạ khúc” của Lưu Hữu Phước. Dĩ nhiên là Khê còn nhớ bài hát và L.L đã đề nghị Khê hát.

Khê kể lại rằng khi L.L yêu cầu Khê hát bài “
Hương giang dạ khúc”, Khê bồi hồi nhớ lại cuộc đi thăm Huế một tuần lễ của Phước và nói : “Vâng, tôi còn nhớ và cũng còn hát được bài hát mà Phước viết sau chuyến thăm Huế cuối năm 1943 để tặng một bạn gái tên là Thu Hương’’.

L.L. không nói gì, nét mặt của nàng cũng không biểu lộ một điều gì. Nàng ngồi im, chờ nghe Khê hát.

Khê lại thoáng nghĩ L.L ắt có liên quan đến Thu Hương.

Với ý nghĩ trên đây, Khê hát bài “Hương giang dạ khúc” với tất cả tình bạn nồng nàn đối với Phước. Lúc đầu L.L còn nhìn Khê và nghe Khê hát. Nhưng sau đó, nàng nhìn xuống đất như để lẩn tránh cái nhìn của Khê vào mắt nàng.

Khê tiếp tục hát: “...Làn hương ơi. Làn hương mờ xóa bóng ai yêu kiều trong giấc mơ”

Đến đây, L.L gục xuống, ôm mặt khóc nức nở và nói qua hơi thở:

- Thu Hương ngày ấy là... em!
Em xin lỗi anh Phước...

Người chồng - chắc có biết tâm tình vợ ôm hai vai vợ, tìm lời an ủi. Khê xúc động, cặp kính nhòa nước mắt.

Cuối cùng, tuy vì những lí do không giống nhau nhưng cả ba đều khóc”.
L.L - Thu Hương không còn nữa. Khi trên đường bay về Việt Nam, một tai nạn máy bay đã đưa nàng ra đi vĩnh viễn, mang theo cuộc đời có quá nhiều uẩn khúc của nàng. Từ bức thư đầu tiên của Thu Hương gửi cho Lưu Hữu Phước đến khi L.L bật khóc và thú nhận “Thu Hương ngày ấy là em”, tính ra đã 18 năm đi qua. Còn mãi đến năm 1976, nhạc sỹ Trần Văn Khê gặp nhạc sỹ Lưu Hữu Phước và nhắc lại chuyện cũ, bấy giờ Lưu Hữu Phước mới biết chắc L.L là Thu Hương ngày ấy, thì cũng đã 33 năm đi qua.

Ở Huế, người ta thường hay nhắc đến mối tình của một người con gái gửi ảnh và những dòng thư cho nhà thơ Hàn Mặc Tử, để rồi nhà thơ có bài thơ bất hủ “Đây thôn Vỹ Dạ”. Thế nhưng chuyện những dòng thư của Thu Hương và xuất xứ của bài “Hương giang dạ khúc” và câu chuyện ly kỳ trên đây thì không phải ai cũng biết.

Xứ Huế thường có những bí ẩn bất ngờ dành cho những con người tài hoa rất mực một cách lạ lùng như thế.
Post: TQS

MÂY MẶC YẾM NÂU

 
Người đẹp Thái Nhã Vân
Người đẹp Thái Nhã Vân
NGUYỄN TRỌNG TẠO
Tặng người đẹp Thái Nhã Vân
Ngang qua làng anh mây mặc yếm nâu
Tuổi căng ngực nắng váy bay qua cầu
Rì rào đồng quê lúa non ngậm sữa
Mây dấu nụ cười chúm chím hoa ngâu
Mây qua đầm sâu sen nâng váy lĩnh
Trắng trắng hồng hồng thức miền yên tĩnh
Dải yếm nhiệm mầu buộc trái tim anh
Cái lúm đồng tiền chết đuối trời xanh
Rồi mây đi đâu? Qua miền ngà ngọc
Một tấm khăn nâu vấn tròn suối tóc
Một vòng tay gió ôm choàng lưng ong
Hai gót chân trần lội sóng sang sông
Anh nhìn đằng đông mặt trời đã tỏ
Mây qua đằng tây nhập vào thành phố
Xập xình xanh đỏ em thành nàng dâu
Anh nhớ thắt lòng mây mặc yếm nâu…
Hà Nội, 11.2012
Post: TQS

9 tháng 6, 2013

Bình yên
          Phạm Huỳnh Công

Ngồi sau xe áp ngực vào lưng áo đầm mồ hôi
                                                        anh chua chua
Em thấy bình yên
Nghe tiếng ngáy pho pho của anh trên chiếc giường
                                                                    ọp ẹp
Em thấy bình yên
Căn nhà náo tiếng quát cục cằn của anh với lũ trẻ
                                                               nghịch ngợm
Em thấy bình yên
Nồng nặc mùi thuốc lá khai mù ảm vào áo quần,
                                                                đồ vật
Em thấy bình yên
Đêm nghe tiếng chuông cửa gấp gáp như báo động
                                                       mỗi khi anh về
Em thấy bình yên
Một ngày
Rồi một tuần
Một tháng
Rồi hai tháng
Không mùi mồ hôi...không tiếng chuông cửa
Hồn em còn một nửa
Một nửa gửi mây

Tình em xòe bàn tay
Bộc bệch mong manh  nhỏ bé
Mịn màng tấm lụa
Nhưng anh là con ngựa hồng hoang đã buông cương
                                                           là quên tất cả
Phi về phía khát khao

Bàn tay em nhói đau
Tấm lụa tan trăm mảnh
Căn nhà mùa hè nắng rang ớn lạnh
Em với tay khao khát bình yên.
                        ( TQS giới thiệu)

7 tháng 6, 2013

SAO CHỔI với TỰ PHÊ BÌNH


Theo thuyết Nho, tuy không tin nhảm dị đoan nhưng vua có khái niệm trời gây dựng vạn vật phó thác cho con trời làm chúa tể địa phương để trông coi công việc quản lí trị dân. Khi chúa tể quản lí sai lầm, làm hại nhân dân, thì trời phát ra những tín hiệu báo sẽ trừng phạt, như sao chổi hiện, đất động, sông cạn, núi lở, vân vân. Chính nhờ tin tưởng phản khoa học của vua chúa thời xưa, mà óc độc đoán ngoan cố của họ bị giảm bớt ít nhiều.

SAO CHỔI với TỰ PHÊ BÌNH
Hoàng Xuân Hãn

Hầu như một thông lệ, cứ năm hết Tết đến, là Đoàn Kết lại xin học giả Hoàng Xuân Hãn một bài cho số xuân. Năm nay, chưa kịp gọi dây nói để xin gặp, thì Hoàng quân đã gửi cho để " tùy nghi sử dụng". Nhân chuyện sao chổi Halley xuất hiện năm Bính Dần 1986, tác giả kể lại câu chuyện sao chổi thời Minh Mạng. Ôn chuyện cũ, mỗi người có thể suy ngẫm chuyện mới, theo cách nhìn và ý kiến của mình.
Phải thú thực là, đọc xong bài, chúng tôi phân vân, do dự không biết nên đăng ngay trong số Tết hay nên đợi số sau. Vì theo óc dị đoan, sao chổi là điềm gở. Ban biên tập Đoàn Kết dường như không có ai tin nhảm, mà bạn đọc Đoàn Kết, chắc cũng chẳng còn mấy ai gắn liền sao chổi với vận mệnh. Song, tin hay không tin, chúng ta vẫn tôn trọng tập tục truyền thống là đầu năm tránh nói chuyện gở. Chúng tôi do dự vì e rằng, đăng ngay số Tết, có bạn đọc sẽ trách là Đoàn Kết quên mất truyền thống. Suy đi nghĩ lại, chúng tôi quyết định cứ đăng, vì ai trách không biết, chứ đã nhận được bài của giáo sư Hoàng Xuân Hãn mà không đăng ngay, thì sẽ nhiều bà con chê trách là chắc.
Vậy xin có mấy lời này. Và nhân dịp năm mới Đinh Mão 1987 là năm 80 tuổi của bác Hoàng Xuân Hãn, chúng tôi xin chúc bác sống lâu, dồi dào sức khoẻ, cống hiến thêm nữa cho nền học thuật và văn hóa Việt Nam, và thấy nước nhà vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay.

Đầu năm nay có sao chổi hiện. Các nước tiên tiến về kĩ thuật đã bắn hỏa tiễn vào đầu nó, và đã thấy rằng vật liệu cơ cấu nó không có gì thần linh. Nhưng nó hiện là một sự trên trời hiếm có. Đông hay Tây xưa cho là một sự tai dị, chứng triệu sẽ chiến tranh, ôn dịch mất mùa. Nhưng theo dân gian kinh nghiệm thì nhiều khi sao chổi hiện lại vào năm được mùa. Đối với vua chúa ở Á đông xưa, sao chổi hiện ra là bởi trời cảnh cáo các con trời cầm quyền trong nước đã quản lí sai lầm sự cai trị dân. Cho nên mỗi lúc có sao chổi hiện, thường có sự phê bình cãi cọ trong triều. Sử ta cũng còn chép một vài chuyện như vậy. Sau đây là chuyện sao chổi năm ất Dậu (1825) dưới triều Minh-mạng, còn chép trong sách '' Đại Nam thực lục '' . Tôi sẽ dịch nguyên văn đoạn ấy ra sau :

« Năm Minh Mạng thứ 6, tháng 8, sao chổi hiện ra, lâu rồi mà không tắt. Vua rất lo nghĩ đến sự trời cảnh giới, tránh ngự ở Chánh điện, giảm ăn, triệt nhạc. Sắc cho bộ Lễ tư ra các địa phương rằng cứ thực thấy điều gì thì tâu kín lên vua. Một tối, vua đứng tại sân điện Võ Hiển ngóng xem sao chổi đến quá canh một nửa canh ; khi có mây kéo tới che lấp đi, thì mới về Nội cung. Sáng sau, vua ngự ở Tiện cung (là cung thường triều), triệu đình thần bảo rằng:
''Trời giáng tai-họa; đáng ra chỉ một mình thân trẫm chịu tang mà thôi. Chớ để trăm họ mắc lấy nạn dữ. Trẫm thấy mỗi khi gặp điều tai họa, các vua xưa hay hạ chiếu cầu lời chỉ trích. Nay trẫm nghĩ rằng trẫm làm có lỗi, ai cũng đều thấy. Thế mà các bầy tôi ngày ngày ở bên cạnh để giúp ta, lại không biết coi vua tôi gần như người một nhà, cần đâu có chiếu xuống mới nói. Hỡi các bầy tôi cao thấp ! Nên đều vững vàng đem điều mình thấy, nói ra hết, đừng kiêng, để giúp trẫm chữa những điều trẫm thiếu sót."
Gặp có viên coi ti Khâm thiên giám, tên Hoàng Công Dương, dâng sớ nói :
'' Sách xưa chép rằng nếu sao chổi hiện ở vùng sao Vị và sao Mão (sao Tua-rua, Pléïades) thì có tai biến. Nhưng có chép rằng nếu sao ấy hiện ở đông nam, và đuôi chiếu sang tây bắc, thì năm ấy được mùa to. Nghĩ kĩ đến các thuyết ấy thì thấy lung tung hồ đồ, không thể tin sâu được."
Vua xem sở rồi dụ rằng:
"Sao chổi hiện ra tháng này. Sau khi ngẩng mặt kính xem, trẫm ăn ngủ không đành. Lập tức trong cung giảm ăn bỏ nhạc. Hằng ngày ngự ở Tiện điện, triệu các đại-thần để lo sâu tu tĩnh, tìm đường ngăn chặn tai họa. Như thế mà chưa được. Vả chăng, hễ trời cao phát sao chổi, chính là để cảnh giới kẻ làm vua coi dân. Kẻ làm vua phải sợ hãi gấp bội, tu đức để tránh lỗi trời. Kẻ làm tôi cũng nên dốc kiệt những điều mắt thấy tai nghe, đem chuyện không hay ra kể hết. Viên chủ ti Khâm thiên giám này, vốn phận sự là chiêm nghiệm những chứng triệu trên trời; thế mà thấy điều gở lại để lâu không tâu lên. Nay lại có lời dỗi nịnh này, mong làm vui lòng ta mà thôi. Chính đúng như lời ''ai lừa dối ta là lừa dối trời đó ". Trẫm đọc sách các đời xưa, chưa từng thấy chép rằng sao chổi là triệu được mùa. Nếu cho đó là điềm tốt, thì sẽ hiểu ra sao sự hiện sao lành mây tốt. Há tưởng rằng trước mắt trẫm mà lấy lời dối nịnh được sao ? "
Bèn giao cho bộ Lễ xét xử tội Hoàng Công Dương. Bộ xin kết tội đày; nhưng đặc biệt cho giáng xuống hàm giám chính, cách chức và lưu lại làm việc. Thượng thư bộ Lễ, Nguyễn Hữu Thân (người đã có công đổi phép lịch Đại Toàn vốn theo nhà Minh ra phép lịch Hiệp Kỉ để theo nhà Thanh) phụ trách quản ti Khâm thiên giám, cũng bị phạt...
Ấy rồi sắc sao chổi mờ dần ; đến tuần đầu tháng 11 mới tắt. »
Câu chuyện sao chổi hiện đến đây là hết. Vì có óc khoa học, Hoàng Công Dương bị giáng chức. Những kẻ giỏi khoa lịch toán rất hiếm, cho nên vẫn được lưu chức. Ông đã áp dụng phép lịch tượng khảo thành, tính các thời điểm mặt trời mọc lên vào 24 ngày mang khí trung hay khí tiết, ở 19 tỉnh trấn đang thời từ Cao Bằng đến Cao Miên. Trong đời Minh Mạng, loạn rất nhiều và lớn: Đỗ Bá Vành (1826), Nùng Văn Vân (1833) ở Bắc. Lê Văn Khôi (1833) và binh đội Xiêm (1833) ở Nam. Chắc rằng vì vậy, Minh Mạng càng tin sao chổi hiện là điềm xấu. Theo thuyết Nho, tuy không tin nhảm dị đoan nhưng vua có khái niệm trời gây dựng vạn vật phó thác cho con trời làm chúa tể địa phương để trông coi công việc quản lí trị dân. Khi chúa tể quản lí sai lầm, làm hại nhân dân, thì trời phát ra những tín hiệu báo sẽ trừng phạt, như sao chổi hiện, đất động, sông cạn, núi lở, vân vân. Chính nhờ tin tưởng phản khoa học của vua chúa thời xưa, mà óc độc đoán ngoan cố của họ bị giảm bớt ít nhiều.
Hậu quả của sự tự phê bình của Minh Mạng là chỉnh đốn lệ thu thẩm. Lệ ấy là đến mùa thu, triều đình xét lại các án tử hình trong nước chưa hành quyết, như trảm giam hậu, giảo giam hậu. Trong lời dụ, vua có nói : '' Xử tội phải lấy mệnh người làm trọng. Hành hình là đem lòng bất nhẫn làm một chính sự bất nhẫn ''. Rồi vua đặt ra lệ tam phúc, nghĩa: xét lại ba lần. Tháng 6, các án tử hình các dinh trấn đề nghị được nộp lên bộ Hình. Bộ quan tham nghị. Tháng 8 trình lên vua. Vua giao cho đình thần thẩm nghị, rồi tháng 9 trình lên vua. Vua xét rất kĩ càng, cố tìm ra lí để gỡ cho tội nhân. Nếu y án thì sai đóng dấu ngự tiền bên chữ kết án và giao lại cho bộ quan chép thành bản khác. Trước lúc thi hành, bộ quan lại phải trình lại vua nguyên bản có dấu kia. Trước khi xử các án rất nghiêm chỉnh, Minh Mạng đã sai đại thần soạn lại bộ luật Gia Long nguyên theo luật Đại Thanh. Chủ ý vua là dân bị mọi từng lớp bóc lột : giặc giã, cường hào, gian giảo, quan lại. Cho nên vua thi hành thưởng phạt rất nghiêm. Từ chức nhỏ đến bậc đại thần, không ai không bị thăng giáng nhiều bận. Một quan liêm chính trung trực như Nguyễn Công Trứ, mà hoạn lộ cũng ba chìm bảy nổi! Tâm trạng vua Minh Mạng đối với dân và quan có thể biểu dương tóm tắt trong một bài thơ Đường luật bằng Hán văn nổi tiếng đương thời. Tôi tạm dịch đại ý ra thơ nôm như sau:

Dụ các bầy tôi
Triều quận bầy tôi áo rỡ ràng
Ai nghe thiên hạ dậy than van ?
Rượu ngon vài chén, máu quần chúng!
Canh ngọt lưng môi, mỡ dân gian!
Trời đổ mưa rào, dòng lệ đổ;
Chốn vang tiếng hát, tiếng khóc vang.
Cửa vua chớ nghĩ rằng xa vợi,
Vâng trị thương dân, lộc sẽ ban.

Nguyên Hán văn như sau:

DỤ THẦN LIÊU
TRUNG NGOẠI THẦN LIÊU KHAI CẨM BÀO
THÙY TRI THIÊN HẠ DĨ NGAO NGAO
SỔ BÔI MĨ TỬU QUẦN SINH HUYẾT
BÁN TRẢN HÒA CANH BÁCH TÍNH CAO
THIÊN LỆ LẠC THÌ NHÂN LỆ LẠC
CA CAO THANH XỨ KHỐC THANH CAO
QUÂN MÔN VẬT VỊ DAO THIÊN TÍ
CÔ VỌNG HOÀNG ÂN THỊ NHỮ TÀO

Nghĩa đen như sau : ''Dụ các bầy tôi : Hỡi các bầy tôi trong triều ngoài quận mặc áo gấm. Có ai biết rằng thiên hạ kêu gào mắng rủa. Vài chén rượu ngon là máu của đàn dân. Nửa bát canh ngon đựng mỡ của bách tính. Khi trời mưa xối xuống, nước mắt người tràn ra. Chỗ tiếng ca trỗi lên cao. thì tiếng khóc trỗi lên cao. Chớ tưởng rằng cửa vua xa nghìn dặm. Các người ai nấy hãy ngóng về. Nếu thương dân thì chúng ngươi sẽ được ban ơn ''.
Xem vậy, ta thấy trong sự cai trị dân, vua Minh Mạng có lòng tốt, cố gắng nhiều. Nhưng vì chính quyền độc đoán, công cụ cai trị sơ sài, vì dân gian không có phương tiện gì tỏ ý mình và tố cáo sự lạm quyền của địa phương, cho nên những lời tự phê bình và những lời khuyến dụ rất hay, rồi cũng chỉ thành sáo ngữ. Non bốn mươi năm sau, dân ta bị suy, nước ta bắt đầu bị mất, cũng khởi nguyên từ đó.

Hoàng Xuân Hãn
(bài đã đăng Đoàn Kết số 388, 2.1987)

Đừng thắc mắc ai post bài hí!

6 tháng 6, 2013

 Phận hồng nhan

Đã hai ngày rồi mà không thấy thành viên nào trong Lớp dịch bài thơ " Dụ thần liêu" của vua Thành Thái do ĐVH đưa lên. Có thể do ngày xưa Lớp chúng ta học chương trình Hán - Nôm ít quá, nên quên hết. Mình tạm thời post tiếp bài " Phận hồng nhan " của Ng Q Lập để Lớp đọc cho vui. Mình cũng bị ám ảnh bởi bài này ( TQS)

Phận hồng nhan

images1669201_1Mình kém chị Kim tám tuổi, ở cùng xóm với chị. Hai tuổi chị cõng đi bắt chuồn chuồn, đi hái lá me quanh những hàng rào lối xóm. Bốn tuổi chị dắt ra bờ sông, chạy lon ton dọc bờ sông đuổi bắt những con còng gió bé xíu. Thỉnh thoảng chị bế xốc lên trợn mắt nhìn mình, nói cu Lập yêu chị không, mình nói yêu. Chị cười, hôn mình chùn chụt mấy cái liền. 
Chị Kim hay hát lại hát hay, hội diễn văn nghệ của huyện năm nào cũng có mặt chị. Đêm nào có hội diễn chị đều dắt mình đi theo, cho ngồi ở cánh gà. Chị múa và hát, thỉnh thoảng còn đóng kịch, lấy nhọ nồi vẽ râu vẽ ria trông rất tức cười. Mỗi lần xong tiết mục chị lại chạy vào cánh gà bẹo má mình, nói răng không vỗ tay hoan hô chị hả hả?
Rồi chiến tranh, nhà mình sơ tán lên làng Đông, nhà chị Kim chạy lối nào không biết. Từ đó không có ai dắt mình đi chơi nữa. Mình cũng quen dần chơi một mình, lối chơi thành nếp cho đến bây giờ. Đôi khi mình cũng nhớ chị Kim, thèm được chị dắt đi chơi nhưng chỉ thoáng qua chút xíu rồi cũng quên luôn. Nhiều đêm mình chiêm bao thấy chị, mừng hết lớn. Tỉnh dậy không thấy chị đâu, buồn ngẩn ngơ. Ngủ một giấc sáng mai thức dậy là quên.
Năm mười hai tuổi, một tối mùa hè nghe tin có văn công về diễn ở làng Hướng Phương, con nít trong làng kéo nhau đi xem, tất nhiên mình đi đầu tiên. Sân khấu ngoài trời có đến vài ngàn người xem. Tụi mình con nít, phải vất vả lắm mới len lên được hàng đầu để xem cho rõ. Len tới nơi, ngồi xem một lúc mới phát hiện ra hai cái vạt áo của mình bay đi đàng nào rồi.
Tối đó múa hơi bị nhiều, nhiều người kêu ầm lên, mình thích múa vẫn ngồi xem say sưa. Đến điệu múa Bảo vệ biển trời, mình phát hiện cái cô múa đầu đàn rất giống chị Kim. Mình đứng vụt lên cốt để chị Kim trông thấy, xem chị có nhận ra mình không. Vừa đứng lên ba bốn người ngồi sau thi nhau túm áo kéo bắt xuống. Mình đành ngồi xuống, cứ nhấp nhổm không yên.
Màn múa kết thúc mình vọt ra khỏi bãi, chạy vòng ra sân khấu mò vào khu vực hậu đài kiếm tìm xem có đúng chị Kim không? Chui qua tấm bạt che hậu đài, mấy cô đang thay phục trang trông thấy mình lập tức rú lên. Hai chú bảo vệ xách tai mình lôi ra, vừa lôi vừa chửi. Một chú còn đá đít một phát thật đau.
Đúng lúc mình bị đá đít ngã dúi, phía sân khấu giới thiệu đơn ca nữ Lê Hoàng Kim. ( Hồi này không ai giới thiệu ca sĩ hay nghệ sĩ, có lẽ sợ nói vậy là không khiêm tốn, hi hi). Mình vọt về phía bãi ngay. Chị Kim đang hát bài Xa khơi. Đúng là chị Kim! Chị Kim trăm phần trăm! Chỉ khác bây giờ chị quá đẹp, hát quá hay. Mình đứng lặng ngắt, tự nhiên nước mắt dầm dề.
Mình đứng chờ cho hết buổi diễn, mọi người về hết rồi mới mò về sân khấu, vừa lúc diễn viên lên xe ca hết rồi. Lượn vòng quanh xe mình vừa chạy vừa gọi chị Kim ơi chị Kim ơi! Chị Kim nhô đầu ra cửa xe kêu to, nói ôi ôi Lập Lập! Xe ca chạy. Chị Kim chỉ kịp hỏi em ở đâu? Mình nói em ở làng Đông. Chị reo lên, nói ôi rứa thì hay rồi. Mai chị còn diễn ở Pháp Kệ.
Chiều mai mình về làng Pháp Kệ thật sớm, người ta đang làm sân khấu mình đã tới đứng ngóng rồi. Chừng như chị Kim cũng đoán mình sẽ đến sớm, chị ra cũng rất sớm. Mình đang đứng ngó quanh chợt có người bịt mắt mình, giật tay ngoảnh lại hóa ra là chị. Chị Kim ôm lấy mình cười rất tươi, nói ôi cu Lập của chị mau lớn khiếp hè, đẹp trai khiếp hè. Mình chỉ biết đứng cười, thực sự hãnh diện. Được cô văn công hai mươi tuổi xinh đẹp hát hay ôm lấy hỏi han thân thiết trước mắt mọi người, thật không gì hãnh diện hơn. Bây giờ mới để ý chị quá đẹp, không biết tả thế nào chỉ biết từ nhỏ đến giờ mình chưa thấy ai đẹp như chị.
Chị Kim cứ ôm riết lấy mình không chịu bỏ ra, chị hỏi liên tù tì, hỏi đi rồi hỏi lại, tuồng như hỏi chỉ là cái cớ để chỉ ôm ấp mình. Lần đầu tiên trong đời mình cảm thấy hạnh phúc khi được một phụ nữ ôm ấp. Chán vạn người lớn ôm mình, chỉ có cái ôm của chị Kim mới khiến mình xao động, rưng rưng.
Tối đó diễn xong chị em lại gặp nhau, chị Kim lại ôm riết lấy mình, nhét vào túi mình một đồng, nói học giỏi năm sau chị thưởng hai đồng. Mình nói tối mai chị diễn ở mô. Chị nói ở Quảng Trường, xa lắm, em đừng đi nữa. Tất nhiên mình không nghe, suốt cả ngay mai chỉ trông đến tối để chạy ù về Quảng Trường với chị. Lần đầu tiên mình nhớ một người phụ nữ, nhớ quay cuồng.
Ở Quảng Trường văn công hát hò múa máy thế nào mình cũng không quan tâm, chỉ mong đến tiết mục của chị Kim. Chị tham gia một bài tốp ca nữ, một điệu múa và hai bài đơn ca. Tiết mục đơn ca của chị rất đặc sắc, lần nào cũng được mọi người yêu cầu hát lại. Mình ngồi giữ đám đông hãnh diện vô cùng, muốn hét to lên với mọi người, nói tui quen chị Kim!
Tan diễn mình chạy ù ra phía sau sân khấu, tìm hoài không thấy chị Kim đâu. Khi đoàn văn công lên xe ca rồi cũng không thấy chị đâu. Xe ca chạy, mình lủi thủi bỏ về. Bỗng mình gặp chị Kim ngay lối vào sân bãi, chị đang cầm tay anh bộ đội nói cười líu lo. Mắt mình tối sầm, mặt mày nóng bừng. Lúc đầu mình định rẽ sang lối khác tránh mặt chị Kim, sau, mình quyết định cúi gầm mặt đi thẳng về phía hai người. Chị Kim thấy mình liền kêu to, nói Lập Lập, Lập ơi! Mình như điếc cứ cúi gầm mặt đi. Chị Kim đuổi theo, mình bỏ chạy. Chị Kim vừa chạy vừa gọi, mình vừa chạy vừa khóc.
Từ đó đến mười năm sau mới gặp lại chị, lúc này mình đã là chàng trai hai hai tuổi. Mình đi Huế, xe đến phà Gianh mình thấy một người đàn bà rất giống chị Kim, ăn mặc nhếch nhác, tay ôm đứa con nhỏ tay xách túi du lịch rách đang đi xuống phà. Xe dừng, mình nhảy xuống đuổi theo. Phà đã rời bến được một quãng, mình vẫn nhìn rất rõ chị Kim bèn vừa vẫy vừa gọi, nói chị Kim chị Kim! Chị giật mình ngoái lại, thấy mình chị vội vàng ôm con len lên phía trước.
Mình không hiểu vì sao chị Kim lại tránh mặt mình. Một năm sau về quê gặp thằng bạn học thời phổ thông là thằng Đại Phúc, nó kể chị có chửa với ai đó, đoàn văn công kỉ luật đuổi chị về nhà. Chị ôm bụng về nhà cũng bị ba mạ chị đuổi ra khỏi nhà. Từ đó chị lang thang rày đây mai đó, rất khổ. Mình nói chị làm gì để sống. Thằng Đại Phúc cười, nói e hè, thứ đó chỉ có làm đĩ chứ làm chi. Khi đó mình tức thằng Đại Phúc lắm, chửi nó vô phúc, nói chị Kim mà làm đĩ à, đom đom cứt cứt! Không ngờ thằng Đại Phúc nói đúng, thế mới đau.
Cuối năm 1986 mình đi tàu ra Hà Nội, tình cờ nhặt được tờ báo gói cơm đưa tin thành phố Vinh bắt được ổ mại dâm lớn. Mình không quan tâm lắm mấy cái tin này nếu báo không đăng hình chị Kim với chú thích: Chủ nhà chứa Lê Hoàng Kim. Cái thời còn tong tắng, thật không thể tả được mình bị sốc thế nào, suốt ngày mồm miệng đắng ngắt, ăn gì cũng thấy nhạt hoét. Mình gọi điện cho thằng bạn công an ở Vinh, nó cười hề hề, nói ôi bà Kim này ghê lắm, bỏ chồng làm đĩ rồi lại bỏ chồng làm đĩ ba bốn lần rồi. Bây giờ vừa làm má mì vừa làm đĩ, bốn chục tuổi rồi khách vẫn rất đông, kinh không? Thật mình không thể tin nổi!
Mười năm sau, lại mười năm sau, sao nhịp thời gian này nhiều đắng cay đến thế?
Năm 1996 mình được Care mời làm phim Gió qua miền sáng tối cùng với Thùy Linh, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Quang Thiêu.v.v… Đây là một phim về HIV và AIDS, trong khi cả nhóm làm phim chẳng ai biết gì HIV và AIDS cả, Care phải mở lớp tập huấn một tháng. Cô Khánh ở Care hỏi mình, nói anh Lập đã gặp bệnh nhân AIDS lần nào chưa, mình nói chưa. Khánh bảo khi nào rảnh em đưa đi gặp gỡ họ. Mình ok liền. Đi để biết chứ gặp bệnh nhân AIDS cứ thấy ghê ghê, mặc dù mình làm phim tuyên truyền không nên sợ hãi xa lánh bệnh nhân AIDS, hi hi.
Khánh có ô tô, cô lái xe đưa mình đến trại phục hồi nhân phẩm hay gì đó không nhớ nữa, ở tít cuối huyện Từ Sơn ( Hà Nội). Đi dọc hành lang mình nhắc Khánh, nói chỉ gặp một hai người thôi nhé, gặp nhiều anh sợ lắm. Khánh cười hi hi, nói em biết rồi, chỉ gặp một người thôi, một hoa hâu miền Trung, chị bị AIDS giai đoạn cuối, cũng sắp đi rồi. Khánh kéo tay mình, nói vào đây anh. Cửa mở, phòng chỉ có một người đàn bà đang ngồi bó gối trên giường bệnh. Mình đứng sững sờ, không ai khác đó là chị Kim!
Khi đó chị Kim chưa nhận ra mình, tới khi Khánh giới thiệu với chị, nói đây là nhà văn Nguyễn Quang Lập thì chí ối một tiếng thật to. Rồi hai tay ôm mặt chị ngồi khóc nức nở, khóc mãi, không nói được một câu nào.
 NQL