28 tháng 3, 2013


LẠI PHƯỢT
Các bạn SKS thân mến!
Trong 2 ngày Thứ Bảy và Chủ nhật vừa rồi (23,24/3), nhóm anh em bọn mình gồm 6 thằng, đã làm một chuyến phượt cuối tuần bằng xe máy về miền Tây Xứ Quảng. Xuất phát từ Hội An lúc 15g chiều Thứ Bảy, cả nhóm bon nhanh vào Đông Phú (Quế Sơn), vòng qua Việt An (Hiệp Đức) dừng chân ăn bún giò rồi men rừng xuyên qua Tiên Kỳ (Tiên Phước) và vượt Đèo Liêu lên miền núi Bắc Trà My lúc 21g20.
Sau khi nhận phòng khách sạn, anh em đi tìm quán ăn để thưởng thức các món đặc sản rừng và nhậu với 1 chai Red Label mình mang theo. Sáng Chủ nhật, ăn sáng, uống cà phê xong, bọn mình lên “kiểm tra” sự cố rò rỉ thân đập do động đất của thủy điện Sông Tranh 2. Biết không có vấn đề gì nghiêm trọng, đập vẫn tồn tại, nước thì đã khô cạn rất nhiều, anh em công nhân duy tu, bảo dưỡng vẫn đang thi công một vài hạng mục đơn giản,…Vậy là ổn rồi! Còn việc động đất lúc nào và cường độ bao nhiêu thì…có trời mới biết! Thế là bọn mình an tâm ghé quán gần chân thủy điện tiếp tục thưởng thức cá niên, vịt trời hảo hạng và làm vài lon bia trước khi tạm biệt xứ quế nổi tiếng này.
Trên đường hạ sơn, bọn mình ghé lại mua ít vú sữa núi tím mọng, căng tròn của Trà My, ghé thăm và thắp hương nhà lưu niệm Cụ Huỳnh Thúc Kháng, rồi dừng chân ăn trưa tại thị trấn Tiên Kỳ - Tiên Phước và mua ít tiêu khô làm quà.
Về thành phố Tam Kỳ, cả nhóm ghé tắm hơi để tẩy sạch bụi đường và sảng khoái tinh thần trước khi hồi hương về phố Hội. Xét thấy quỹ hội vẫn còn, anh em bèn dừng lại Cầu Mống - Điện Bàn để nhâm nhi món bò nhúng dấm ngon tuyệt và nhậu hết thùng bia rồi mới hạ cánh an toàn tại nhà lúc 17g25.
Đi xe máy trên các tuyến đường còn lắm ổ gà, ổ voi lại băng qua nhiều đèo dốc hiểm trở thật là vất vả, nhưng với mình, đây là dịp để rèn luyện sức khỏe, bổ sung thêm hiểu biết về quê hương, đất nước thông qua cuộc sống đời thường nên hàng năm đều tự tổ chức vài chuyến đi như thế. Xin chia sẻ cùng các bạn và rất mong có bạn đồng hành trong những lần phượt trong nay mai.
Mời các bạn xem vài hình ảnh trong chuyến đi nhé! (TA)

Công cụ chế biến nhanh các món nhậu dọc đường

An tâm vì đập thủy điện Sông Tranh vẫn...khô nước

Thưởng thức cá niên Sông Tranh bằng cách này mới đã

Trà My không chỉ có quế, có cá niên mà còn có cả vú sữa rất đặc biệt thế này

Anh em trước nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng


Hình ảnh: Cuối cùng cũng chụp đc em nó phun lửa nhá

27 tháng 3, 2013

Thu Bồn

... con sông chảy qua làng Tư Phú quê mình trước khi về Hội An của Trần Ánh rồi xuôi Cửa Đại ra biển

... khi sương đêm chưa tan

Có con đò thức dậy sớm


 Xuôi về Hoài phố

mấy chiếc thuyền chài bé nhỏ

T (Chuyện nhà)

24 tháng 3, 2013

Thơ

SINH NHẬT

(Tặng MD & BN )(Chú Ba Mẫn)
Ngày sinh con ba không làm nổi tiệc
Ông bà cho nào có thiếu gì đâu
Ăn một miếng ngon sao đắng lòng đến thế
Trời cứ trêu đùa như chẳng biết ta đau
Tạ ơn người và xin hẹn ngày sau
Con sẽ đáp đền một chút
Để mai đây nhở không còn gặp lại
Ơn nghĩa này nhớ đến mai sau



TUỔi HỒNG
Ngày xưa đuổi bướm hái hoa
Tặng em cài kín một tòa thiên nhiên
Còn em chẳng biết muộn phiền
Trần truồng thơm thắm giữa miền trần gian
Ta rong chơi giữa “địa đàng ‘’
Mặc cho Chúa mắng hoang đàng quá đi 



                       CẢM
Dở dang riêng một góc trời
Sá gì thiên hạ mấy lời rong rêu
Nghìn đêm anh lạy tạ Kiều
Một mình bơi giữa vạn chiều bể dâu
Nát tan tình cuối tình đầu
Đường về cát bụi qua cầu thiên thai 

LH

21 tháng 3, 2013

CẢM NHẬN TỪ MỘT CHUYẾN TRỞ VỀ


Hành trang đã chuẩn bị xong từ chiều hôm trước gồm một ba lô , một cặp cũ (đựng những bản thảo chưa in ) và một ít tiền độ nhật .Ấy vậy mà vẫn bồi hồi chờ đợi giờ lên đường. Tới15 giờ 30 xe mới xuất bến nhưng từ 13h  mình đã lên đường xuống bến xe Miền đông .Đi một vòng thăm người này thăm người nọ . Rất vui .
16 giờ , xe Thiên trang chuyển bánh .Tạm biệt Sài Gòn ,Đồng Nai ,Ninh Thuận, Bình Thuận…7 giờ sáng ngày 2 tháng 3 xe dừng lại cho khách ăn sáng tại Qui Nhơn .Hơn 10 giờ đến bến xe Quảng Ngãi .Quê hương  đây rồi .Xuống xe , châm 1 điếu thuốc .Nhìn ngắm chung quanh .Vài chú xe ôm trờ tới :Anh  về đâu ? Mang ba lô ,xách cặp băng qua đường phố .Gọi một chú xe ôm chở về nhà bạn .Lại quên nhà . Điện thoại ,chừng 3 phút bạn đến chở về nhà nghỉ ngơi ,tắm rửa ,ăn cơm trưa.Cám ơn Anh Chị đã đón một thằng bạn thân tình .Vừa ăn vừa trò chuyện rất vui .Bạn đi nghỉ trưa ,mình tranh thủ đọc mấy tờ báo Văn nghệ .
Hơn 3 giờ chiều hai anh em về nhà của mình ở Đức Thắng .Chị hai rất vui . Mở cửa cho thoáng ,đốt hương lên bàn thờ tổ tiên ,ba mẹ…Bạn trò chuyện với chị hai. Lại trở về ngồi yên giữa mái nhà .Xin cám ơn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn , cám ơn nhà thơ họ Đỗ "... Quê hương nếu ai không nhớ ,sẽ không lớn nổi thành người …" .Ôi niềm vui và hạnh phúc được trở về  sau 26 năm  biền biệt nơi đất lạ xứ người .Bây giờ có quê hương ,có tổ tiên ,có chị ,có bạn …bên mình ." Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao …”( Nguyễn Du )
6 giờ 15 phút chiều 2 tháng 3 ,hẹn nhau ở nhà Nguyễn và những người bạn thân yêu đã gặp mặt đông đủ  .Vui không thể nào tả hết .Có rượu có bia có thơ có nhạc có đàn .12 giờ khuya tiễn Sếp về với vợ, bọn mình ở lại chơi đến 2 giờ sáng .Tạm biệt nhau ,hẹn gặp lại một chiều Bến Lỡ .
Bến Lỡ 10 giờ sáng ngày12 tháng 3 .Lại đến biển và gặp gỡ linh hồn thơ XD ,X Quỳnh “chỉ có biển mới biết thuyền đi đâu về đâu …’’Cuộc vui có thêm hai người bạn gái cùng học thời phổ thông .
Một bên là Biển, một bên là Sông ,chúng tôi ngồi ở giữa .Gió ở quê hương mát lạ lùng .Ngoài kia là hòn Rạng , xa xa là đảo Lý sơn . Quê hương sao đẹp tuyệt vời ,chỉ cảm nhận bằng trái tim hồn hậu ,bằng con mắt yêu người say đắm …3 giờ chiều tạm biệt bạn bè, .xin hẹn ngày gặp lại .
Trở về nhà thắp hương cho Ông Bà ,tạm biệt chị .Lại lên đường ,lại ra đi …
Tối 12 tháng 3 ,Sếp lại mời anh em ra thành phố.Có ts Xướng ,anh Tánh  ,Nhạn ,Tuyển ,Ân ,…Lại trò chuyện và hát ,thơ , ca, đàn trống...Khuya tiễn các vị ra về ,mình về nhà bạn nghỉ ngơi …
3 giờ chiều ngày13 tháng 3 ,Sếp chở xuống bến xe trở lại Sài gòn .
Biết ơn các bạn thật nhiều .
"Gặp gỡ là vui là biết được mình còn
 Soi gương bè bạn không buồn tủi
 Chỉ thấy thương mình giữa thế gian "
                                                              
 LH 

20 tháng 3, 2013

Về một truyện ngắn bị quy chụp là độc hại ở Phú Yên.

    Vừa qua, truyện ngắn BÓNG ANH HÙNG của Doãn Dũng (Hà nội) được báo Phú Yên đăng tải thì bị vấp phải một vài luồng ý kiến của các vị tai to mặt lớn từng là " nguyên" các chức vụ trong tỉnh, quy chụp là phản động, có tư tưởng độc hại và đòi "xử lý". Truyện ngắn này được đăng tải lần đầu tiên năm 2009 trên tuần báo Văn nghệ của hội nhà văn VN, sau đó báo Đại biểu Quốc hội đăng tiếp. Thế nhưng đến khi báo Phú Yên đưa lên hầu bạn đọc thì các bố ta tìm thấy yếu tố độc hại ngay. Ngẫm nghĩ, các nhà văn lớn ở Hội nhà văn và hàng triệu độc giả đã từng đọc truyện ngắn này cách đây 4 năm đều thua các tiền bối của xứ Nẫu vì đã không nhận ra đâu là bạn và đâu là thù!!!!!!!!!!!!!!!!
    Mình xin đăng truyện ngắn này ở đây để các bạn đọc và thử cố tìm hiểu xem nó "phản động", "độc hại"...ở chỗ nào nhé.

 
                                         BÓNG ANH HÙNG
                                                                                Doãn Dũng

Đúng là tôi đã chết. Tôi đã thành con ma trên núi. Mẹ tôi nhận được giấy báo tử ở nhà, trong giấy ghi rõ tôi đã “hy sinh vì Tổ Quốc”.
Nhưng tôi thì luôn nghĩ rằng tôi đã chết vì mẹ mình. Chính mẹ đã đưa tôi đến thế giới lạ lùng này.
Xin các bạn chớ hoảng sợ. Người chết không hại được người sống. Người chết chẳng qua là người sống được chuyển đến thế giới khác, cũng có tình cảm và suy nghĩ như người trên trần gian. Sợi dây liên lạc giữa hai thế giới được thông qua một người có khả năng hiểu ngôn ngữ của người chết, như tay nhà văn này chẳng hạn. Hắn nghe tôi kể chuyện và chép lại bằng thứ ngôn ngữ các bạn vẫn hay dùng. Tuy vậy, nếu tình cờ đọc được câu chuyện này mà các bạn không tin thì cũng chẳng sao. Thường vẫn có quá nhiều câu chuyện được người ta kể như thật, nhưng thực ra chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng.
Đã nhiều năm tôi không về thăm nhà, nơi trước đây tôi đã từng sống cùng mẹ. Đừng tưởng người chết rồi là hết, là chẳng còn gì để mà bận tâm. Nghĩ như vậy là sai lầm! Người chết vẫn về thăm nhà vào những dịp lễ tết, nhất là ngày giỗ của mình. Thằng Quý hằng năm vẫn sửa soạn ba lô về quê ăn giỗ mình, háo hức cứ như hồi còn sống được đi tranh thủ sau đợt bắn đạn thật đạt điểm cao.
Căn hộ của mẹ tôi bé xíu, không có nhà xí riêng, ở trên tầng năm của khu tập thể. Hồi còn bé, nửa đêm phải đi xuyên qua dãy hành lang lạnh lẽo hun hút gió, tối như hũ nút để đến được cái nhà xí dùng chung của mấy hộ gia đình là nỗi kinh hoàng của tôi. Không phải lần nào tôi cũng đến được đích an toàn, mà thường xuyên tè dầm dọc đường vì sợ ma. Tôi ao ước có một cái bô nhưng mẹ không mua. Mẹ bảo muốn rèn luyện tôi thành một người đàn ông mạnh mẽ.
Mẹ làm công tác xã hội ở phường. Hình như ở hội phụ nữa gì đó. Ban ngày mẹ đi họp, tối đến các gia đình tuyên truyền về sinh đẻ có kế hoạch, về chính sách mới hoặc bài trừ mê tín dị đoan. Mẹ rất bận.
Nhà chỉ có hai mẹ con, bố hy sinh ở chiến trường B. Hồi đầu chỉ được báo là mất tích. Mãi chẳng thấy ông về, sau giải phóng người ta làm lễ truy điệu liệt sỹ cho ông. Đến ngày tôi nhập ngũ, mẹ tôi vẫn chưa biết mộ ông nằm chính xác ở đâu.
Một ngày cuối hè, cái ngày mà tôi nhận được tin trượt đại học, mẹ đi làm về gọi tôi lại, bảo: “Thắng này, mẹ đăng ký cho con nhập ngũ đợt này”. Tôi ngơ ngác: “Nhà mình thuộc diện chính sách. Sao con phải đi?” Mẹ mở túi, lấy ra một tập tài liệu đánh máy, mắt vẫn dõi theo những dòng chữ, mồm thủng thẳng: “Ở nhà lêu lổng rồi lại hư mất”. Tôi năn nỉ: “Mẹ cho con thi đại học một năm nữa”. Mẹ vẫn cắm cúi với đống giấy tờ, lạnh lùng nhắc lại: “Mẹ đã đăng ký cho con rồi”.
Tôi biết tính mẹ. Mẹ đã phải thay bố vật lộn nuôi tôi, cuộc sống và công việc bắt bà phải hà khắc với chính bản thân mình và con cái. Tôi lại là thằng nhút nhát, từ bé chưa bao giờ dám cãi lời mẹ. Tôi ngậm ngùi chấp nhận sự sắp đặt của bà.
Trước ngày nhập ngũ, phường tổ chức một buổi mít tinh tiễn đưa tân binh lên đường. Mẹ cùng hội phụ nữ tặng quà cho chiến sỹ. Mỗi người được hai cái khăn mặt bông và hai tuýp thuốc đánh răng Bông Lan cứng như đất đồi. Khi trao quà cho tôi, mẹ giơ tay ra bắt, lắc lắc mấy cái, nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng rất quan cách: “Chúc đồng chí chân cứng đá mềm, hoàn thành nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc”. Tôi không dám nhìn mẹ, tôi cúi đầu xuống lí nhí câu cảm ơn. Tôi thấy mẹ xa lạ vô cùng!
Hôm sau tôi lên đường. Sân vận động gần nhà, nơi tôi vẫn đá bóng buổi chiều, chật ních tân binh và người thân đưa tiễn. Đơn vị về lấy quân mang theo rất nhiều vệ binh. Người ta đọc tên và từng người bước lên xe trong vòng tròn mà đám vệ binh đứng làm hàng rào. Những chàng trai ngày thường đá bóng vẫn hùng hổ bắt nạt tôi, bỗng mềm yếu một cách kỳ lạ, thò đầu qua cửa xe, nức nở khóc.
Mẹ không đưa tiễn tôi. Sáng hôm ấy mẹ bận việc, bà phải đi hòa giải cho một đôi vợ chồng muốn ly dị. Tôi rất muốn mẹ có mặt ở đây, vào lúc này.
* * *
Cái hang Giời Đánh là nhà của tôi và Quý. Thực ra trước đây nó không có tên, hoặc có tên mà chúng tôi không biết. Lính tráng đặt tên cho cái hang này sau cái chết của chúng tôi.
Hồi ấy đơn vị tôi nhận nhiệm vụ tái chiếm một số điểm cao trong dãy núi đá vôi của mặt trận. Chỉ huy đã cho tập kết một lượng thuốc nổ khá lớn trong hang để phục vụ công tác chiến đấu. Quý là chiến sỹ bám trụ trên hang trước tôi. Tôi mới được điều lên sau vụ trốn đơn vị về ăn Tết. Nếu so với cánh lính trận nói chung, thì công việc coi kho này thật an toàn và nhàn hạ. Ban ngày chúng tôi ngủ, tối thức nhận hàng của cánh vận tải gùi lên. Địa hình ở đây hiểm trở và ngay sát nách địch, nên cánh vận tải chỉ có thể hoạt động vào ban đêm.
Cái hang này không lớn, rộng độ vài mét và sâu hơn hai chục mét. Trên vòm hang, nhũ đá tua tủa chĩa xuống như những tấm sừng lọc thức ăn của con cá voi khổng lồ. Trong cùng hang có một ngách nhỏ bằng phẳng như lát bằng phiến đá to. Lòng hang rộng chúng tôi dùng làm kho, còn cái ngách nhỏ để ngủ.
Tôi nhớ rất rõ hôm ấy là ngày mười bốn tháng giêng, trời lạnh và mưa phùn. Đêm hôm trước chúng tôi nhận được một chuyến hàng lớn, cánh vận tải đông và hối hả hơn mọi khi. Những thùng gỗ thông màu xanh xếp chật lối đi. Sau khi kiểm đếm vào sổ sách xong thì trời sáng, chúng tôi chui vào ngách hang bắt đầu ngủ. Pháo địch bắn mạnh và nhiều hơn mọi hôm, tôi nghe thấy từng chặp, nổ từng loạt dài rền rền không dứt. Mạnh đến mức chúng tôi cảm nhận rõ sự rung rung chấn động của vách hang.
Ấy vậy mà chỉ năm phút sau chúng tôi chết, bất đắc kỳ tử như bị giời đánh. Cái chết không anh dũng, cũng chẳng hèn nhát nhưng lại nhạt toẹt. Một khối nhũ đá to hơn cột đình đã bị đứt chân do chấn động của cơn mưa đạn pháo, rơi thẳng xuống kích nổ đống vũ khí đạn dược bên dưới. Khối lửa bùng lên, tôi và Quý bị ép chết ngay lập tức. Ngách hang bị đá vùi kín mít. Lòng hang nóng bỏng, khói lửa quánh đặc như trong lò bát quái.
Vụ nổ khiến lòng hang biến dạng, vách hang rộng ra, vòm hang trơn tuột chẳng còn lấy một thanh nhũ đá, cứ như thể đứng trong một quả trứng khổíng lồ vậy.
Chúng tôi sang thế giới bên kia nhanh quá, chỉ trong nháy mắt, không từ từ, không hấp hối. Tim thôi đập và não ngừng hoạt động đến rụp một cái như tắt công tắc điện. Hồn tôi và Quý lìa khỏi xác, bật dậy nhìn nhau, rồi nhìn hai cái xác nát bét ri rỉ máu chảy của mình đang bị đá vùi lấp. Cả hai thằng đều không tin là thể xác mình đã chết, mình đã thành ma. Chúng tôi nhập lại vào xác, cố gắng lắm cũng không khiến được cái xác ấy cử động. Lạ thật! Vẫn thấy mình như đang sống, không chút đau đớn và có thể đi và nhìn xuyên qua vách núi.
Vậy là tôi đã thành ma. Ở những quả núi gần đó còn nhiều con ma khác, chúng đang ngủ. Ngày của dương gian là đêm của ma. Hai thằng chúng tôi chợt buồn ngủ rũ mắt, lục tục kéo nhau vào cái ngách hang đã bị bịt kín để tiếp tục giấc ngủ vừa bị cướp mất.
Ngủ một trận no mắt thì cánh vận tải mò lên. Mọi ngày giờ này cũng phải dậy để còn nhận hàng. Hôm nay cánh vận tải không gùi không khiêng gì cả, họ chỉ có đòn tre và võng, công cụ để vận chuyển thương binh tử sỹ. Họ lên tìm xác chúng tôi.
Một tay đứng trên đống đá vỡ vụn, soi đèn pin nhìn vòm hang nhẵn thín, thở dài: “Còn cái gì đâu, thành tro bụi cả rồi”.
Hai thằng chúng tôi thấy vậy gào toáng lên: “Ở đây, chúng tao ở đây”. Chúng tôi lồng lộn tìm mọi cách để báo hiệu nhưng người dương không nghe được tiếng người âm. Đám ấy như điếc lác cả một lũ với nhau. Chúng nhìn ngó một chặp, lấy đòn tre bới bới chọc chọc mấy cái rồi lắc đầu ngao ngán bỏ về.
* * *
Chết rồi tôi vẫn không nguôi giận mẹ.
Chỉ hai tuần trước đấy, mười giờ tối đêm ba mươi Tết tôi bò về đến nhà sau một chặng đường dài trốn tránh lực lượng kiểm soát quân sự. Mẹ đang làm cơm cúng tất niên, ngẩng lên thấy tôi lù lù đứng giữa nhà. Mẹ lạnh lùng hỏi: “Bỏ ngũ hả?” Tôi im lặng, không dám trả lời mà nhìn lên bàn thờ cầu cứu bố tôi. Trên ấy, khói hương nghi ngút, ánh mắt bố như hư ảo, không ấm cúng mà cũng chẳng ra lạnh lùng.
Tôi lăn ra ngủ vì mệt.
Pháo giao thừa nhà hàng xóm đã nổ. Hé mắt thấy mẹ đang lui cui đứng trên chiếc ghế đẩu treo bánh pháo ngoài cửa. Tôi định dậy thì đã thấy mẹ xòe diêm. Tiếng pháo ròn rã nổ váng óc. Ánh lửa lập lòe trong mắt mẹ.
Tôi quay lưng lại, trùm chăn lên đầu và ngủ tiếp. Mùng một, mẹ không nỡ mắng đâu mà lo.
Khoảng bốn giờ sáng, mẹ lay tôi: “Thắng, dậy đi cho sớm”. Tôi nhỏm dậy, giọng ngái ngủ hỏi lại: “Đi đâu hả mẹ?” Mẹ quàng cái khăn len lên đầu, thít mạnh một cái đầy vẻ cương quyết, nói: “Về đơn vị, mẹ sẽ đi cùng con”. Nói xong mẹ đứng lên, buộc túi bánh và con gà cúng lên ghi đông xe đạp. Trong lòng ấm ức vô cùng nhưng tôi không dám trái lệnh mẹ.
Đường phố Hà Nội sớm mùng một vắng tanh, phủ dày một lớp xác pháo. Thảng hoặc mới gặp một đôi trai gái đi chơi giao thừa về muộn trên chiếc xe Cub nổ pành pành. Cô gái ngồi sau thò tay vào túi áo khoác của bạn trai, ôm chặt, đầu giụi vào vai co ro vì rét. Mùi sương mai, mùi hương trầm, mùi thuốc pháo quyện vào nhau ngan ngát hăng hắc, ra mùi của Tết.
Hai mẹ con đèo nhau ra bến Nứa tìm xe khách với hy vọng mong manh. Những chiếc xe im lìm đỗ trong bóng đêm. Bến xe vắng lặng không một bóng người. Không tiếng rao đêm, không kẻ nhỡ độ đường, không cảnh chen lấn xô đẩy leo lên xe. Mẹ chạy đôn chạy đáo rút cục cũng tìm được người bảo vệ bến xe để hỏi. Kết quả như đã được đoán: không còn chuyến xe nào.
Mẹ đi ra, tóm lấy ghi đông xe từ tay tôi, lắc lắc mấy cái, rồi lại kéo lên dậm xuống như muốn kiểm tra độ chắc chắn của chiếc xe cà khổ. Mẹ nói: “Đi bằng xe đạp. Hai mẹ con mình thay nhau cho đỡ mệt”.
Nói thế nhưng mẹ lại đạp xe hướng vào thành phố. Tôi ngồi sau, hồ nghi: “Đi đâu thế mẹ?” Mẹ dứt khoát: “Lên đơn vị”. Tôi bảo: “Đây là đường về nhà”. Mẹ tôi như sực tỉnh, hấp tấp quay đầu, đổ xe. Tôi nhìn thấy ánh đèn đường phản chiếu trên gò má mẹ, trong một giọt nước đang lăn xuống.
Gió bấc lùa hơi nước từ dưới dòng sông lên lạnh buốt. Gió quất vào thành cầu ù ù. Tiếng quèn quẹt đều đặn của xích xe cọ vào gácđờsên cộng với tiếng rin rít của đôi pêđan khô dầu vang lên trong đêm tối mịt mùng nghe như tiếng ma hờn. Mẹ con tôi lùi lũi đạp xe vượt sông Hồng. Lúc này tôi mới khóc, vì giận mẹ hay thương mẹ? Có lẽ là cả hai. Sao mẹ không cho con ở lại ăn Tết rồi con sẽ đi. Con muốn ở nhà với mẹ.
Cứ kỳ cạch đạp xe như thế đến gần trưa thì tôi nghe thấy tiếng động cơ ì ì từ phía sau. Mẹ nhảy phắt xuống, đứng giữa đường quơ quơ tay chặn xe xin đi nhờ. Đó là chiếc xe Zil 130 mang biển quân sự, chở nhu yếu phẩm cho chiến sỹ trên biên giới. Tay lái xe hơn tôi vài tuổi, quân phục nhầu nhĩ, cẩu thả. Sau khi nghe mẹ tôi trình bày lý do, hắn cười ngất và đồng ý ngay tắp lự. Hắn giúp tôi treo chiếc xe đạp lên đằng sau thùng xe, buộc cố định lại. Xong hắn nháy mắt cười, châm chọc: “Ta lại lên đơn vị ăn Tết, hả?”
Đêm hôm ấy mẹ con tôi lên tới đơn vị. Mẹ giao tôi cho đại đội rồi lên tiểu đoàn thưa chuyện với chỉ huy. Sáng hôm sau mẹ nhất quyết đòi về, chả ai can được mẹ. Tôi dõi theo dáng mẹ liêu xiêu đạp xe xa dần cho đến khi mất hẳn. Đó là hình ảnh cuối cùng tôi nhìn thấy mẹ khi còn sống.
Buổi chiều tôi nhận được lệnh tăng cường lên hang trông kho thuốc nổ.
* * *
Tắt tiếng súng, cuộc sống ở chỗ chúng tôi cũng thay đổi dần. Không còn những người bạn mới xuất hiện. Những con ma hàng xóm cũng dần dần bị đội quy tập phát hiện rồi chuyển đi. Người ta xây một cái nghĩa trang to như khu đô thị cách đây mấy chục cây số. Xương cốt nằm đâu thì nhà ở đấy, Quý thỉnh thoảng xuống chơi với anh em rồi lại về. Tôi cũng kịp hiểu một điều, trong thế giới của chúng tôi, không phải ai cũng là anh hùng, không phải ai cũng đến thế giới này bằng cái chết oanh liệt. Tuy vậy, tất cả đều được đối xử bình đẳng. Có lẽ đó là điều dễ chịu nhất mà chúng tôi có thể tự hào về thế giới của mình.
Quý về quê ăn giỗ, lên mặc bộ đồ rất lạ, trông như quần áo của chú rể nhưng mầu lòe loẹt, cổ thắt một cái nơ trông rất Tây. Nó chạy chiếc xe máy màu mận chín đỗ xịch trước cửa hang, vẫn ngồi trên xe, lấy gót chân trái gạt chân chống rất điệu nghệ, gọi toáng lên: “Thắng ơi… Thắng”.
Tôi nhìn Quý không nén được cười. Quý kéo tôi lại chiếc xe, đẩy tôi ngồi lên rồi bảo: “Chạy thử đi, tiện lắm”. Tôi bảo: “Oách nhỉ, xe này chắc đời mới. Hồi tao với mày đi lính, nhà giàu mới có cái xe tám mốt kim vàng giọt lệ”. Quý phấn khích: “Thay đổi lắm, mày không tưởng tượng được đâu. Nhà tao năm nay khấm khá hơn, các cụ mới đốt cho tao chiếc xe này”.
Nói rồi Quý thần mặt ra, nhìn tôi bối rối như lỡ lời. Giọng nó trầm hẳn xuống, gần như là thì thào: “Sao mày không về thăm nhà?” Tôi không trả lời, chui vào ngách hang nằm. Quý mang cái xe máy xuống để dưới chân núi, mặc lại bộ quần áo cũ rách te tua, rồi chui vào nằm cùng tôi. Chẳng ai nói thêm một lời nào.
Thực ra là tôi đã từng về thăm nhà. Quý đi hôm trước thì hôm sau tôi cũng về, đúng hôm giỗ mình.
Tôi về đến nhà khi ấy trời đã tối. Cái hành lang hun hút năm xưa khiến tôi bật cười, chả có con ma nào ngoài chính tôi. Mẹ không có nhà. Mâm cơm cúng tôi đã nguội ngắt. Hương cháy rụi đến chân. Đồ cúng không có tiền vàng, không có quần áo mới. Tôi đang phải mặc chiếc áo bị hơi nổ xé rách như tổ đỉa nhiều năm nay, cũng thấy chạnh lòng.
Trong góc nhà, những tuýp thuốc đánh răng và khăn mặt bông được gói thành những suất quà. Tên thuốc đánh răng lạ hoắc chứ không phải Bông Lan như thời tôi nhập ngũ. Hình ảnh của mẹ khi bắt tay trao quà lại hiện về như mới hôm qua. Cơn hờn giận trào lên, tôi không đợi mẹ nữa, phi một mạch về núi rồi nằm lì trong hang cho đến khi Quý lên.
* * *
Mẹ lên tìm tôi. Cũng đúng vào dịp Tết xong, tôi nghe oang oang có giọng người ngoài cửa hang. Cái giọng quen quen, khuôn mặt của một người đàn ông như đã gặp đâu đó mà không thể nhớ ra. Đi sau là một người phụ nữ, vất vả trèo lên những bậc đá. Mẹ, đúng là mẹ tôi. Tôi định ào ra đón mẹ, nhưng nỗi giận hờn lại dìm tôi xuống, khóa chân tay tôi cứng đờ. Tôi nép vào vách đá như chạy trốn, mặc dù tôi có đứng trước mặt thì mẹ cũng không thể nhìn thấy tôi.
Người đàn ông kéo mẹ tôi lên miệng hang, chỉ: “Đây cô ạ. Chính là ở cái hang này. Lúc chúng cháu lên, chỉ còn toàn đá vụn”.
Tôi đã nhận ra hắn là ai, chính là tay lính vận tải năm xưa. Người chết không có tuổi, nhưng người sống thì già đi theo năm tháng.
Bao nhiêu năm rồi nhỉ? Mười năm kể từ cái đận mẹ đưa tôi về đơn vị để rồi tôi chết nhạt toẹt trong cái hang này. Mười năm khiến mẹ tôi già sụp đi. Tóc mẹ bạc phân nửa. Động tác của mẹ đã chậm chạp đi rất nhiều, nhưng vẫn dứt khoát mang dáng dấp của một người phụ nữ mạnh mẽ và quyết đoán.
Mẹ ngồi lặng lẽ thắp hương. Không khóc, không sì sụp khấn vái, mắt nhắm lại như thể hóa thạch. Tôi tấm tức khóc vì vẫn giận mẹ.
Một lúc thì mẹ về. Thằng Quý thấy tôi như vậy cũng không cười nói hi ha như mọi khi, nó đi ra đi vào mà chẳng biết làm gì.
Mấy hôm sau Quý bảo: “Chắc là cả kiếp ma ta ở cái hang này. Chẳng ai biết trong hang này vẫn còn xương cốt của ta. Mày cứ định như vậy mãi sao? Ra ngoài cho khuây khỏa rồi về thăm nhà đi. Lấy xe của tao mà đi cho tiện”.
Tôi nghe lời nó. Đi lại thăm bạn bè, nhưng không về thăm nhà.
Cuối năm ấy mẹ lại lên. Lần này đi rất đông, đủ cả cánh vận tải đêm xưa lên tìm xác chúng tôi, thêm một tay đại úy ở ban chính sách của tỉnh đội và một phụ nữ là nhà ngoại cảm.
Người phụ nữ nhắm mắt, lầm bầm cái gì đó trong miệng rồi bất chợt mở to đôi mắt ra. Tôi nhìn thấy mắt cô ta mầu xanh lục, sáng quắc như hai cái bóng đèn. Cơ thể của cô ta dần dần biến đổi, những mạch máu, dây thần kinh trông như búi dây điện. Nội tạng thành những bảng mạch và bóng đèn nhấp nháy. Cô ta như một cái vô tuyến, hoặc là cái điện thoại chứ không phải là con người bằng da bằng thịt.
Tôi và Quý ngồi yên một chỗ. Chưa bao giờ chúng tôi gặp một người kỳ lạ như vậy. Hình như cô ta đã nhìn thấy chúng tôi. Cô thông báo với mọi người: “Ở đây có hai vong. Trong ngách hang đằng kia”.
Mọi người nghe vậy nháo nhác.
Cô ta hỏi tôi và Quý:
- Hai vong tên gì?
Tôi bảo:
- Nguyễn Quyết Thắng – Tôi chỉ sang Quý – Còn thằng này là Nguyễn Đình Quý.
Thằng Quý mắt tròn vo, mồm dẩu ra vì ngạc nhiên, sợ rúm lại chẳng nói được câu nào.
Cô ta dịch lại lời của chúng tôi cho mọi người nghe. Mẹ tôi khuỵu xuống bất tỉnh. Tay đại úy giở sổ ra đọc gì đó, trời lạnh mà mồ hôi vã ra như tắm, gật đầu lia lịa: “Đúng rồi, đúng rồi”.
Họ bắt đầu đào bới cái ngách hang bị vùi lấp hơn chục năm. Một lúc sau thì mẹ tôi tỉnh. Mẹ gào lên: “Thắng ơi. Con ở đâu?” Tôi nói dỗi: “Con không về đâu”. Mẹ lao vào đống đá, dùng tay cào đá bật cả máu tươi. Mẹ khóc. Lần thứ hai tôi nhìn thấy nước mắt mẹ. Lần đầu lúc mẹ đánh đổ xe sớm mùng một Tết năm nào. Nhưng khóc thành tiếng thế này thì bây giờ mới thấy. Mẹ nức nở, không ngớt điệp khúc: “Con không về, mẹ chết không nhắm được mắt”. Khuôn mặt bà đau đớn, co rúm lại, toàn thân run bần bật khiến tôi thấy mình thật tàn ác.
Ánh sáng từ mắt của người phụ nữ ngoại cảm đã tắt. Búi dây điện lại trở thành mạch máu và dây thần kinh. Người ta không duy trì trạng thái này được lâu vì rất mệt. Cô ta trở về như những người bình thường và không thể nghe được chúng tôi nữa.
Mẹ ngồi bệt xuống nền đá lạnh, tựa lưng vào vách hang, đầu ngoẹo sang một bên, thẫn thờ. Tôi ngồi bên cạnh, ngả hẳn vào mẹ, luồn tay ôm lưng như thời thơ dại. Hình như mẹ cảm nhận được điều ấy, quờ quờ tay mấy lần tìm tôi. Mặt mẹ đã bớt tái, có chút sắc hồng nhưng đôi mắt vẫn buồn rười rượi, nhìn vô định xa xăm.
Đến trưa thì họ tìm thấy chúng tôi. Mẹ lại ngất khi nhìn thấy mảnh giấy có dòng chữ tôi viết tên tuổi, quê quán, đơn vị, hàn kín bằng ny lông rồi đút vào túi áo ngực trước khi lên hang. Mẹ bế từng khúc xương tôi vào lòng.
Xương cốt của Quý được tỉnh đội chuyển về nghĩa trang liệt sỹ. Nó về với anh em dưới ấy nên vui ra mặt. Quý định diện bộ quần áo chú rể cho sang, nhưng người ta lại mặc cho nó bộ quần áo khác, mầu đỏ có ngôi sao vàng ở ngực. Nó ngắm nghía bộ cánh mới và cũng thấy hài lòng.
* * *
Mẹ xin cho tôi về quê. Mẹ đã xây căn nhà ba gian trên quả đồi nhỏ, ở một vùng quê yên bình, nơi trước kia cả cha mẹ tôi từng sinh ra và lớn lên. Mẹ cũng đã tìm thấy cha và đưa ông về đây. Tôi ở gian bên trái, cha tôi ở gian bên phải. Gian giữa đóng khóa im ỉm. Trong buồng của tôi, mẹ đặt một cái bô tráng men trắng toát. Mẹ vẫn nhớ mong ước của tôi thiếu thời.
Cha không già hơn tôi là bao nhiêu. Khi ông chết cũng mới chỉ ngoài hai mươi tuổi. Cha nhìn tôi, vỗ vỗ lên vai bảo: “Cha rất hiểu con”. Tôi không biết cha hiểu gì. Khi còn sống, chưa bao giờ tôi được gặp cha. Như đoán được sự nghi hoặc trong ánh mắt tôi. Cha trầm ngâm, giọng buồn buồn: “Đừng giận mẹ”. Ánh mắt cha lúc này khác hẳn, nồng ấm yêu thương chứ không hờ hững như trên bức ảnh năm xưa.
Hai cha con nằm ngắm bầu trời dày đặc sao. Có những ngôi sao sáng quắc, có những ngôi sao lập lòe như sắp tắt, còn cả những ngôi sao đã tắt mà mắt ma không nhìn thấy, như thể chúng cũng là những thân phận ở một thế giới khác nữa.
Một thời gian sau thì mẹ tôi mất. Tôi không bao giờ biết chính xác lý do gì khiến mẹ chết. Đó là bí mật của riêng mẹ. Cha con tôi đón mẹ về căn buồng giữa.
Mẹ vồ lấy tôi. Chỉ khóc.
Hôm ấy cũng là mười bốn tháng giêng, trời lạnh căm căm và mưa phùn ẩm ướt.

TTM.

19 tháng 3, 2013

GÓP Ý HIẾN PHÁP.

(Tọa đàm ngày 15/03/2013 tại Viện Nghiên cứu Lập pháp, về các vấn đề kinh tế xã hội trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992)

1327213703-giao-su-hoang-tuy

    Tôi rất hoan nghênh chủ trương của Quốc hội kéo dài thời gian lấy ý kiến nhân dân về Hiến pháp đến hết tháng 9, đồng thời tổ chức tọa đàm rộng rãi trong giới trí thức xung quanh những vấn đề lớn đang có nhiều tranh cãi.
Song sẽ là tốt hơn nếu trước đó không có những quy kết tùy tiện đối với những ý kiến trái chiều, dù những ý kiến này thật ra rất xây dựng và xuất phát từ những công dân chỉ có một tội là thiết tha với đất nước và ngày đêm trăn trở vì sự nghiệp độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân – hay theo cách nói sau này: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh – một sự nghiệp mà vì nó biết bao người con ưu tú của đất nước đã ngã xuống và cả dân tộc đã chịu đựng biết bao hy sinh, nhọc nhằn trong mấy chục năm chiến tranh tàn khốc mà đến nay phần lớn mục tiêu vẫn đang còn ở phía trước. Sẽ là tôt hơn nữa nếu Ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp chưa vội tuyên bố bảo lưu tất cả những điểm chính, vì như thế khác nào thừa nhận việc hô hào nhân dân góp ý chỉ là hình thức, và bao nhiêu thời gian, của cải, công sức, của dân bỏ ra để góp ý chỉ là một sự lãng phí vô trách nhiệm.
Trước tình hình đó, những ai trăn trở về vận nước nguy vong làm sao không đắn đo suy nghĩ được. Tôi nghĩ vào lúc này, khi kinh tế lụn bại, xã hội nhiễu nhương, tham nhũng hoành hành, bờ cõi biên cương hải đảo đang bị uy hiếp nghiêm trọng, thì mọi người tử tế nên dẹp mọi suy tính cá nhân, cùng nhau vận dụng trí tuệ suy nghĩ tìm một lối ra ít đau đớn nhất cho dân tộc thay vì cố thủ trong những thành kiến, định kiến đã lỗi thời.
Trên tinh thần đó, tôi xin phát biểu thẳng thắn một số ý kiến về đề tài tọa đàm hôm nay, chủ yếu tập trung về hai Điều 54 và 57 trong bản Dự thảo.
Nói vắn tắt, đây thực chất cũng chỉ là những ý kiến đã được trình bày cô đọng nhưng khá đầy đủ trong bản Kiến nghị bảy điểm về sửa đổi Hiến pháp 1992 của 72 công dân.
1. Điều 54, Mục 1 ghi: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”. Xin đề nghị bỏ hẳn cụm từ “định hướng xã hội chủ nghĩa” vì nội hàm rất mù mờ mà theo kinh nghiệm thực tế nhiều năm qua chỉ là cái cớ để hạn chế, cản trở, thu hẹp thị trường, khiến nhiều nước đến nay vẫn chưa chịu công nhận kinh tế thị trường cho ta. Có lẽ vì cái định hướng xã hội chủ nghĩa đó nên mới cố bám chặt cái chủ trương lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo, dốc hết vốn liếng tiền của, tài nguyên trí lực vào đó, chẳng những không có hiệu quả, mà còn cản trở sự phát triển lành mạnh của đất nước, làm cho đất nước kiệt quệ, chồng chất nợ nần không biết bao giờ mới trả hết được, lại gây ra biết bao tệ nạn trong xã hội. Có thể nói mọi tai ương bắt nguồn từ cái nhận thức sai lầm về chủ nghĩa xã hội theo kiểu giáo điều Liên Xô cũ. Giờ đây bản Dự thảo đã mạnh dạn từ bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, đó là một bước tiến đáng kể, thế thì còn lý do gì bám giữ cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” cho rắc rối.
Lần lại lịch sử có thể thấy rằng trước đây, theo lý luận chủ nghĩa xã hội của Liên Xô cũ (cũng là lý luận chính thống của Đảng Cộng sản ViệtNamlúc đó), kinh tế xã hội chủ nghĩa là kinh tế kế hoạch hóa tập trung, không chấp nhận cơ chế thị trường. Cho nên năm 1968 khi nhà lãnh đạo Tiệp Khắc Dubcek chủ trương sử dụng cơ chế thị trường trong chủ nghĩa xã hội thì lý thuyết “chủ nghĩa xã hội thị trường” ấy của Dubcek đã ngay lập tức bị Liên Xô và cả phe xã hội chủ nghĩa, gồm cả Việt Nam, lên án là lý thuyết phản động nguy hiểm. Đến mức để cứu chủ nghĩa xã hội ở Tiệp Khắc, Liên xô đã đưa quân đội vào Tiệp Khắc lật đổ Dubcek, và cuộc can thiệp quân sự tàn bạo ấy đã được ViệtNamvà cả phe xã hội chủ nghĩa lên tiếng ủng hộ mạnh mẽ. Thế mà chưa đầy hai mươi năm sau đó, để vượt qua khủng hoảng kinh tế xã hội giữa thập kỷ 80 thế kỷ trước, chúng ta đã chấp nhận chính cái kinh tế thị trường trước đây đã từng bị phê phán kịch liệt và, như để tự trấn an, cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” được gán thêm vào, tương tự như cái tên chủ nghĩa xã hội thị trường của Dubcek.
Qua đó thấy rõ ngay trong nội bộ Đảng và các nhà cầm quyền nhận thức về chủ nghĩa xã hội cũng đã thay đổi ngược hẳn lại, ngay ở những nội dung cơ bản. Gì thì gì, thực tiễn chứ không phải giáo điều mới có thể có tiếng nói quyết định cuối cùng cho chính sách và hành động của một đảng thật sự vì dân.
Cũng có người cho rằng cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” là để hạn chế những mặt trái của kinh tế thị trường. Thật ra kinh tế thị trường chẳng có mặt trái nào cả, những tiêu cực phát sinh chẳng qua là do hiểu và thực hiện không đúng kinh tế thị trường. Một xã hội muốn phát triển lành mạnh, bền vững, thì cùng với Nhà nước pháp quyền, và kinh tế thị trường, còn rất cần một nhân tố nữa là xã hội dân sự. Chính cái xã hội dân sự này giúp điều chỉnh những lệch lạc tự phát khi vận hành bộ máy nhà nước và kinh tế thị trường. Một khi xã hội dân sự còn rất yếu kém, chẳng những không được khuyến khích phát triển, trái lại còn bị xem là kế sách của các thế lực thù địch đang âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” thì bộ máy nhà nước dễ dàng xa dân, quên dân, đối lập với dân, và kinh tế thị trường cũng dễ dàng bị méo mó, xuyên tạc, nhất là về mặt đạo đức xã hội. Cho nên bàn về kinh tế lại không thể không quay về quyền con người và quyền công dân là những quyền đương nhiên phải được hiến định minh bạch và triệt để tôn trọng thì mới có thể có xã hội dân sự phát triển.
2. Điều 57 ghi: “Đất đai, …, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật”. Dù muốn biện minh cách gì cũng không thể phủ nhận đây là điểm mắc mứu quan trọng đã gây nên biết bao thảm cảnh đau lòng những năm qua, đẩy người dân hiền lành đến chỗ có lúc không chịu nổi, phải đứng lên chống lại chính quyền địa phương để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình bỗng nhiên bị xâm phạm, bị tước đoạt không phải vì lợi ích của đất nước mà chẳng qua vì lòng tham ích kỷ của quan chức các cấp, nhân danh Nhà nước bắt tay với nhiều tư nhân, doanh nghiệp để trục lợi, hại dân. Đã có quá nhiều ý kiến đề nghị nên thay đổi quy định này, dựa trên những cơ sở pháp lý vững chắc. Bản Kiến nghị của 72 công dân cũng đã nói rõ vì sao quy định này là một trong những điều bất công tệ hại nhất đã làm giảm nghiêm trọng niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Vì vậy có lẽ không cần thiết phải nói thêm gì nữa về tác hại của một chủ trương mà thực tế đau buồn hai mươi năm qua đã hoàn toàn bác bỏ.
Tuy nhiên giở lại lịch sử có thể soi sáng thêm bản chất vấn đề. Quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân xuất hiện đầu tiên trong Hiến pháp 1980 chỉ là sao chép theo Hiến pháp Liên Xô cũ và do đó được cho là dựa theo lý luận chính thống xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồi đó, sau hàng loạt biểu hiện tráo trở của Trung Quốc và nhất là sau cuộc chiến xâm lược của họ năm 1979, Liên Xô đối với Việt Nam trở thành nhà nước xã hội chủ nghĩa mẫu mực. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa đó, toàn thể nông thôn đã hợp tác hóa từ lâu, đất đai thuộc sở hữu toàn dân là đương nhiên. Miền Bắc nước ta khi ấy cũng đã hợp tác hóa rồi, Miền Nam thì đang trên con đường hợp tác hóa, theo khẩu hiệu cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hộị. Trong khung cảnh quốc tế và nội tình đó, sự xuất hiện quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân trong Hiến pháp cũng là dễ hiểu. Không ai, kể cả những người cấp tiến trong giới cầm quyền lúc bấy giờ, có thể tiên lượng được hết những hệ lụy gì của quan điểm đó khi tình hình thay đổi.
Những hệ lụy này chỉ mới dần dần hiện rõ và trở nên ngày càng trầm trọng trong tiến trình đổi mới. Một mặt, hợp tác xã ở Miền Bắc dần dần tan rã, còn ở Miền Nam không còn ai dám nghĩ đến hợp tác hóa như ở Miền Bắc trước kia nữa. Mặt khác, đội ngũ cán bộ quan chức ngày càng tha hóa, biến chất, một bộ phận không nhỏ mà ngày càng lớn dần trở nên hư hỏng hoàn toàn. Trong tình hình mới đó, những quy định luật pháp lỏng lẻo đi liền với quyền sở hữu toàn dân về đất đai trở thành chỗ dựa pháp lý lý tưởng để các quan chức mọi cấp ra sức trục lợi trên lưng nông dân nghèo khổ. Hệ lụy tất yếu là đấu tranh, khiếu kiện ngày càng lan rộng, ban đầu tự phát càng về sau càng có ý thức. Hết Tiên Lãng đến Văn Giang và nhiều nơi khác, mà đó chỉ mới là phần nổi của tảng băng chìm. Rõ ràng quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân trước đây có vẻ đương nhiên trong chế độ toàn nông thôn hợp tác hóa nay đã trở nên mâu thuẫn gay gắt với những đổi mới ở nông thôn. Nó hoàn toàn không phù hợp nữa, chí ít cũng không hợp lòng dân ở giai đoạn này và trong tình hình sa sút đạo đức nghiêm trọng của cả hệ thống chính trị rất dễ dàng bị lợi dụng để đè nén, áp bức, nhũng nhiễu dân mà vẫn không bị pháp luật trừng trị.
Bài học rút ra từ những chuyện bàn ở trên là không có, không bao giờ có thể có, một lý thuyết hoàn thiện về chủ nghĩa xã hội để rồi cứ thế mãi mãi áp dụng thành công. Mục tiêu phấn đấu của toàn thể cộng đồng dân tộc Việt Nam và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả nhất của một đảng thật sự vì dân vì nước chỉ có thể là: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, theo những tiêu chí phổ quát của nhân loại đương thời. Chỉ có trên quan điểm đó mới có thể có một Hiến pháp quy tụ, đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân, thực hiện hòa giải dân tộc, vượt qua khủng hoảng và tình hình nguy cấp hiện tại để tiến lên một giai đoạn phát triển mới đầy hứa hẹn của đất nước.

( Người giới thiệu bài viết của giáo sư Hoàng Tụy:  TQS )