Vừa qua, truyện ngắn BÓNG ANH HÙNG của Doãn Dũng (Hà nội) được báo Phú Yên đăng tải thì bị vấp phải một vài luồng ý kiến của các vị tai to mặt lớn từng là " nguyên" các chức vụ trong tỉnh, quy chụp là phản động, có tư tưởng độc hại và đòi "xử lý". Truyện ngắn này được đăng tải lần đầu tiên năm 2009 trên tuần báo Văn nghệ của hội nhà văn VN, sau đó báo Đại biểu Quốc hội đăng tiếp. Thế nhưng đến khi báo Phú Yên đưa lên hầu bạn đọc thì các bố ta tìm thấy yếu tố độc hại ngay. Ngẫm nghĩ, các nhà văn lớn ở Hội nhà văn và hàng triệu độc giả đã từng đọc truyện ngắn này cách đây 4 năm đều thua các tiền bối của xứ Nẫu vì đã không nhận ra đâu là bạn và đâu là thù!!!!!!!!!!!!!!!!
Mình xin đăng truyện ngắn này ở đây để các bạn đọc và thử cố tìm hiểu xem nó "phản động", "độc hại"...ở chỗ nào nhé.
BÓNG ANH HÙNG
Doãn
Dũng
Đúng là tôi đã chết. Tôi đã thành
con ma trên núi. Mẹ tôi nhận được giấy báo tử ở nhà, trong giấy ghi rõ tôi đã
“hy sinh vì Tổ Quốc”.
Nhưng tôi thì luôn nghĩ rằng tôi
đã chết vì mẹ mình. Chính mẹ đã đưa tôi đến thế giới lạ lùng này.
Xin các bạn chớ hoảng sợ. Người
chết không hại được người sống. Người chết chẳng qua là người sống được chuyển
đến thế giới khác, cũng có tình cảm và suy nghĩ như người trên trần gian. Sợi
dây liên lạc giữa hai thế giới được thông qua một người có khả năng hiểu ngôn
ngữ của người chết, như tay nhà văn này chẳng hạn. Hắn nghe tôi kể chuyện và
chép lại bằng thứ ngôn ngữ các bạn vẫn hay dùng. Tuy vậy, nếu tình cờ đọc được
câu chuyện này mà các bạn không tin thì cũng chẳng sao. Thường vẫn có quá nhiều
câu chuyện được người ta kể như thật, nhưng thực ra chỉ là sản phẩm của trí
tưởng tượng.
Đã nhiều năm tôi không về thăm
nhà, nơi trước đây tôi đã từng sống cùng mẹ. Đừng tưởng người chết rồi là hết,
là chẳng còn gì để mà bận tâm. Nghĩ như vậy là sai lầm! Người chết vẫn về thăm
nhà vào những dịp lễ tết, nhất là ngày giỗ của mình. Thằng Quý hằng năm vẫn sửa
soạn ba lô về quê ăn giỗ mình, háo hức cứ như hồi còn sống được đi tranh thủ
sau đợt bắn đạn thật đạt điểm cao.
Căn hộ của mẹ tôi bé xíu, không
có nhà xí riêng, ở trên tầng năm của khu tập thể. Hồi còn bé, nửa đêm phải đi
xuyên qua dãy hành lang lạnh lẽo hun hút gió, tối như hũ nút để đến được cái
nhà xí dùng chung của mấy hộ gia đình là nỗi kinh hoàng của tôi. Không phải lần
nào tôi cũng đến được đích an toàn, mà thường xuyên tè dầm dọc đường vì sợ ma.
Tôi ao ước có một cái bô nhưng mẹ không mua. Mẹ bảo muốn rèn luyện tôi thành
một người đàn ông mạnh mẽ.
Mẹ làm công tác xã hội ở phường.
Hình như ở hội phụ nữa gì đó. Ban ngày mẹ đi họp, tối đến các gia đình tuyên
truyền về sinh đẻ có kế hoạch, về chính sách mới hoặc bài trừ mê tín dị đoan.
Mẹ rất bận.
Nhà chỉ có hai mẹ con, bố hy sinh
ở chiến trường B. Hồi đầu chỉ được báo là mất tích. Mãi chẳng thấy ông về, sau
giải phóng người ta làm lễ truy điệu liệt sỹ cho ông. Đến ngày tôi nhập ngũ, mẹ
tôi vẫn chưa biết mộ ông nằm chính xác ở đâu.
Một ngày cuối hè, cái ngày mà tôi
nhận được tin trượt đại học, mẹ đi làm về gọi tôi lại, bảo: “Thắng này, mẹ đăng
ký cho con nhập ngũ đợt này”. Tôi ngơ ngác: “Nhà mình thuộc diện chính sách.
Sao con phải đi?” Mẹ mở túi, lấy ra một tập tài liệu đánh máy, mắt vẫn dõi theo
những dòng chữ, mồm thủng thẳng: “Ở nhà lêu lổng rồi lại hư mất”. Tôi năn nỉ:
“Mẹ cho con thi đại học một năm nữa”. Mẹ vẫn cắm cúi với đống giấy tờ, lạnh
lùng nhắc lại: “Mẹ đã đăng ký cho con rồi”.
Tôi biết tính mẹ. Mẹ đã phải thay
bố vật lộn nuôi tôi, cuộc sống và công việc bắt bà phải hà khắc với chính bản
thân mình và con cái. Tôi lại là thằng nhút nhát, từ bé chưa bao giờ dám cãi
lời mẹ. Tôi ngậm ngùi chấp nhận sự sắp đặt của bà.
Trước ngày nhập ngũ, phường tổ
chức một buổi mít tinh tiễn đưa tân binh lên đường. Mẹ cùng hội phụ nữ tặng quà
cho chiến sỹ. Mỗi người được hai cái khăn mặt bông và hai tuýp thuốc đánh răng
Bông Lan cứng như đất đồi. Khi trao quà cho tôi, mẹ giơ tay ra bắt, lắc lắc mấy
cái, nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng rất quan cách: “Chúc đồng chí chân cứng đá
mềm, hoàn thành nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc”. Tôi không dám nhìn mẹ, tôi cúi đầu
xuống lí nhí câu cảm ơn. Tôi thấy mẹ xa lạ vô cùng!
Hôm sau tôi lên đường. Sân vận
động gần nhà, nơi tôi vẫn đá bóng buổi chiều, chật ních tân binh và người thân
đưa tiễn. Đơn vị về lấy quân mang theo rất nhiều vệ binh. Người ta đọc tên và
từng người bước lên xe trong vòng tròn mà đám vệ binh đứng làm hàng rào. Những
chàng trai ngày thường đá bóng vẫn hùng hổ bắt nạt tôi, bỗng mềm yếu một cách
kỳ lạ, thò đầu qua cửa xe, nức nở khóc.
Mẹ không đưa tiễn tôi. Sáng hôm
ấy mẹ bận việc, bà phải đi hòa giải cho một đôi vợ chồng muốn ly dị. Tôi rất
muốn mẹ có mặt ở đây, vào lúc này.
* * *
Cái hang Giời Đánh là nhà của tôi
và Quý. Thực ra trước đây nó không có tên, hoặc có tên mà chúng tôi không biết.
Lính tráng đặt tên cho cái hang này sau cái chết của chúng tôi.
Hồi ấy đơn vị tôi nhận nhiệm vụ
tái chiếm một số điểm cao trong dãy núi đá vôi của mặt trận. Chỉ huy đã cho tập
kết một lượng thuốc nổ khá lớn trong hang để phục vụ công tác chiến đấu. Quý là
chiến sỹ bám trụ trên hang trước tôi. Tôi mới được điều lên sau vụ trốn đơn vị
về ăn Tết. Nếu so với cánh lính trận nói chung, thì công việc coi kho này thật
an toàn và nhàn hạ. Ban ngày chúng tôi ngủ, tối thức nhận hàng của cánh vận tải
gùi lên. Địa hình ở đây hiểm trở và ngay sát nách địch, nên cánh vận tải chỉ có
thể hoạt động vào ban đêm.
Cái hang này không lớn, rộng độ
vài mét và sâu hơn hai chục mét. Trên vòm hang, nhũ đá tua tủa chĩa xuống như
những tấm sừng lọc thức ăn của con cá voi khổng lồ. Trong cùng hang có một
ngách nhỏ bằng phẳng như lát bằng phiến đá to. Lòng hang rộng chúng tôi dùng
làm kho, còn cái ngách nhỏ để ngủ.
Tôi nhớ rất rõ hôm ấy là ngày
mười bốn tháng giêng, trời lạnh và mưa phùn. Đêm hôm trước chúng tôi nhận được
một chuyến hàng lớn, cánh vận tải đông và hối hả hơn mọi khi. Những thùng gỗ
thông màu xanh xếp chật lối đi. Sau khi kiểm đếm vào sổ sách xong thì trời
sáng, chúng tôi chui vào ngách hang bắt đầu ngủ. Pháo địch bắn mạnh và nhiều
hơn mọi hôm, tôi nghe thấy từng chặp, nổ từng loạt dài rền rền không dứt. Mạnh
đến mức chúng tôi cảm nhận rõ sự rung rung chấn động của vách hang.
Ấy vậy mà chỉ năm phút sau chúng
tôi chết, bất đắc kỳ tử như bị giời đánh. Cái chết không anh dũng, cũng chẳng
hèn nhát nhưng lại nhạt toẹt. Một khối nhũ đá to hơn cột đình đã bị đứt chân do
chấn động của cơn mưa đạn pháo, rơi thẳng xuống kích nổ đống vũ khí đạn dược
bên dưới. Khối lửa bùng lên, tôi và Quý bị ép chết ngay lập tức. Ngách hang bị
đá vùi kín mít. Lòng hang nóng bỏng, khói lửa quánh đặc như trong lò bát quái.
Vụ nổ khiến lòng hang biến dạng,
vách hang rộng ra, vòm hang trơn tuột chẳng còn lấy một thanh nhũ đá, cứ như
thể đứng trong một quả trứng khổíng lồ vậy.
Chúng tôi sang thế giới bên kia
nhanh quá, chỉ trong nháy mắt, không từ từ, không hấp hối. Tim thôi đập và não
ngừng hoạt động đến rụp một cái như tắt công tắc điện. Hồn tôi và Quý lìa khỏi
xác, bật dậy nhìn nhau, rồi nhìn hai cái xác nát bét ri rỉ máu chảy của mình
đang bị đá vùi lấp. Cả hai thằng đều không tin là thể xác mình đã chết, mình đã
thành ma. Chúng tôi nhập lại vào xác, cố gắng lắm cũng không khiến được cái xác
ấy cử động. Lạ thật! Vẫn thấy mình như đang sống, không chút đau đớn và có thể
đi và nhìn xuyên qua vách núi.
Vậy là tôi đã thành ma. Ở những
quả núi gần đó còn nhiều con ma khác, chúng đang ngủ. Ngày của dương gian là
đêm của ma. Hai thằng chúng tôi chợt buồn ngủ rũ mắt, lục tục kéo nhau vào cái
ngách hang đã bị bịt kín để tiếp tục giấc ngủ vừa bị cướp mất.
Ngủ một trận no mắt thì cánh vận
tải mò lên. Mọi ngày giờ này cũng phải dậy để còn nhận hàng. Hôm nay cánh vận
tải không gùi không khiêng gì cả, họ chỉ có đòn tre và võng, công cụ để vận
chuyển thương binh tử sỹ. Họ lên tìm xác chúng tôi.
Một tay đứng trên đống đá vỡ vụn,
soi đèn pin nhìn vòm hang nhẵn thín, thở dài: “Còn cái gì đâu, thành tro bụi cả
rồi”.
Hai thằng chúng tôi thấy vậy gào
toáng lên: “Ở đây, chúng tao ở đây”. Chúng tôi lồng lộn tìm mọi cách để báo
hiệu nhưng người dương không nghe được tiếng người âm. Đám ấy như điếc lác cả
một lũ với nhau. Chúng nhìn ngó một chặp, lấy đòn tre bới bới chọc chọc mấy cái
rồi lắc đầu ngao ngán bỏ về.
* * *
Chết rồi tôi vẫn không nguôi giận
mẹ.
Chỉ hai tuần trước đấy, mười giờ
tối đêm ba mươi Tết tôi bò về đến nhà sau một chặng đường dài trốn tránh lực
lượng kiểm soát quân sự. Mẹ đang làm cơm cúng tất niên, ngẩng lên thấy tôi lù
lù đứng giữa nhà. Mẹ lạnh lùng hỏi: “Bỏ ngũ hả?” Tôi im lặng, không dám trả lời
mà nhìn lên bàn thờ cầu cứu bố tôi. Trên ấy, khói hương nghi ngút, ánh mắt bố
như hư ảo, không ấm cúng mà cũng chẳng ra lạnh lùng.
Tôi lăn ra ngủ vì mệt.
Pháo giao thừa nhà hàng xóm đã
nổ. Hé mắt thấy mẹ đang lui cui đứng trên chiếc ghế đẩu treo bánh pháo ngoài
cửa. Tôi định dậy thì đã thấy mẹ xòe diêm. Tiếng pháo ròn rã nổ váng óc. Ánh
lửa lập lòe trong mắt mẹ.
Tôi quay lưng lại, trùm chăn lên
đầu và ngủ tiếp. Mùng một, mẹ không nỡ mắng đâu mà lo.
Khoảng bốn giờ sáng, mẹ lay tôi:
“Thắng, dậy đi cho sớm”. Tôi nhỏm dậy, giọng ngái ngủ hỏi lại: “Đi đâu hả mẹ?”
Mẹ quàng cái khăn len lên đầu, thít mạnh một cái đầy vẻ cương quyết, nói: “Về
đơn vị, mẹ sẽ đi cùng con”. Nói xong mẹ đứng lên, buộc túi bánh và con gà cúng
lên ghi đông xe đạp. Trong lòng ấm ức vô cùng nhưng tôi không dám trái lệnh mẹ.
Đường phố Hà Nội sớm mùng một
vắng tanh, phủ dày một lớp xác pháo. Thảng hoặc mới gặp một đôi trai gái đi
chơi giao thừa về muộn trên chiếc xe Cub nổ pành pành. Cô gái ngồi sau thò tay
vào túi áo khoác của bạn trai, ôm chặt, đầu giụi vào vai co ro vì rét. Mùi
sương mai, mùi hương trầm, mùi thuốc pháo quyện vào nhau ngan ngát hăng hắc, ra
mùi của Tết.
Hai mẹ con đèo nhau ra bến Nứa
tìm xe khách với hy vọng mong manh. Những chiếc xe im lìm đỗ trong bóng đêm.
Bến xe vắng lặng không một bóng người. Không tiếng rao đêm, không kẻ nhỡ độ
đường, không cảnh chen lấn xô đẩy leo lên xe. Mẹ chạy đôn chạy đáo rút cục cũng
tìm được người bảo vệ bến xe để hỏi. Kết quả như đã được đoán: không còn chuyến
xe nào.
Mẹ đi ra, tóm lấy ghi đông xe từ
tay tôi, lắc lắc mấy cái, rồi lại kéo lên dậm xuống như muốn kiểm tra độ chắc
chắn của chiếc xe cà khổ. Mẹ nói: “Đi bằng xe đạp. Hai mẹ con mình thay nhau
cho đỡ mệt”.
Nói thế nhưng mẹ lại đạp xe hướng
vào thành phố. Tôi ngồi sau, hồ nghi: “Đi đâu thế mẹ?” Mẹ dứt khoát: “Lên đơn
vị”. Tôi bảo: “Đây là đường về nhà”. Mẹ tôi như sực tỉnh, hấp tấp quay đầu, đổ
xe. Tôi nhìn thấy ánh đèn đường phản chiếu trên gò má mẹ, trong một giọt nước
đang lăn xuống.
Gió bấc lùa hơi nước từ dưới dòng
sông lên lạnh buốt. Gió quất vào thành cầu ù ù. Tiếng quèn quẹt đều đặn của
xích xe cọ vào gácđờsên cộng với tiếng rin rít của đôi pêđan khô dầu vang lên
trong đêm tối mịt mùng nghe như tiếng ma hờn. Mẹ con tôi lùi lũi đạp xe vượt
sông Hồng. Lúc này tôi mới khóc, vì giận mẹ hay thương mẹ? Có lẽ là cả hai. Sao
mẹ không cho con ở lại ăn Tết rồi con sẽ đi. Con muốn ở nhà với mẹ.
Cứ kỳ cạch đạp xe như thế đến gần
trưa thì tôi nghe thấy tiếng động cơ ì ì từ phía sau. Mẹ nhảy phắt xuống, đứng
giữa đường quơ quơ tay chặn xe xin đi nhờ. Đó là chiếc xe Zil 130 mang biển
quân sự, chở nhu yếu phẩm cho chiến sỹ trên biên giới. Tay
lái xe hơn tôi vài tuổi, quân phục nhầu nhĩ, cẩu thả. Sau khi nghe mẹ tôi trình
bày lý do, hắn cười ngất và đồng ý ngay tắp lự. Hắn giúp tôi treo chiếc xe đạp
lên đằng sau thùng xe, buộc cố định lại. Xong hắn nháy mắt cười, châm chọc: “Ta
lại lên đơn vị ăn Tết, hả?”
Đêm hôm ấy mẹ con tôi lên tới đơn
vị. Mẹ giao tôi cho đại đội rồi lên tiểu đoàn thưa chuyện với chỉ huy. Sáng hôm
sau mẹ nhất quyết đòi về, chả ai can được mẹ. Tôi dõi theo dáng mẹ liêu xiêu
đạp xe xa dần cho đến khi mất hẳn. Đó là hình ảnh cuối cùng tôi nhìn thấy mẹ
khi còn sống.
Buổi chiều tôi nhận được lệnh
tăng cường lên hang trông kho thuốc nổ.
* * *
Tắt tiếng súng, cuộc sống ở chỗ
chúng tôi cũng thay đổi dần. Không còn những người bạn mới xuất hiện. Những con
ma hàng xóm cũng dần dần bị đội quy tập phát hiện rồi chuyển đi. Người ta xây
một cái nghĩa trang to như khu đô thị cách đây mấy chục cây số. Xương cốt nằm
đâu thì nhà ở đấy, Quý thỉnh thoảng xuống chơi với anh em rồi lại về. Tôi cũng
kịp hiểu một điều, trong thế giới của chúng tôi, không phải ai cũng là anh
hùng, không phải ai cũng đến thế giới này bằng cái chết oanh liệt. Tuy vậy, tất
cả đều được đối xử bình đẳng. Có lẽ đó là điều dễ chịu nhất mà chúng tôi có thể
tự hào về thế giới của mình.
Quý về quê ăn giỗ, lên mặc bộ đồ
rất lạ, trông như quần áo của chú rể nhưng mầu lòe loẹt, cổ thắt một cái nơ
trông rất Tây. Nó chạy chiếc xe máy màu mận chín đỗ xịch trước cửa hang, vẫn
ngồi trên xe, lấy gót chân trái gạt chân chống rất điệu nghệ, gọi toáng lên:
“Thắng ơi… Thắng”.
Tôi nhìn Quý không nén được cười.
Quý kéo tôi lại chiếc xe, đẩy tôi ngồi lên rồi bảo: “Chạy thử đi, tiện lắm”.
Tôi bảo: “Oách nhỉ, xe này chắc đời mới. Hồi tao với mày đi lính, nhà giàu mới
có cái xe tám mốt kim vàng giọt lệ”. Quý phấn khích: “Thay đổi lắm, mày không
tưởng tượng được đâu. Nhà tao năm nay khấm khá hơn, các cụ mới đốt cho tao
chiếc xe này”.
Nói rồi Quý thần mặt ra, nhìn tôi
bối rối như lỡ lời. Giọng nó trầm hẳn xuống, gần như là thì thào: “Sao mày
không về thăm nhà?” Tôi không trả lời, chui vào ngách hang nằm. Quý mang cái xe
máy xuống để dưới chân núi, mặc lại bộ quần áo cũ rách te tua, rồi chui vào nằm
cùng tôi. Chẳng ai nói thêm một lời nào.
Thực ra là tôi đã từng về thăm
nhà. Quý đi hôm trước thì hôm sau tôi cũng về, đúng hôm giỗ mình.
Tôi về đến nhà khi ấy trời đã
tối. Cái hành lang hun hút năm xưa khiến tôi bật cười, chả có con ma nào ngoài
chính tôi. Mẹ không có nhà. Mâm cơm cúng tôi đã nguội ngắt. Hương cháy rụi đến
chân. Đồ cúng không có tiền vàng, không có quần áo mới. Tôi đang phải mặc chiếc
áo bị hơi nổ xé rách như tổ đỉa nhiều năm nay, cũng thấy chạnh lòng.
Trong góc nhà, những tuýp thuốc
đánh răng và khăn mặt bông được gói thành những suất quà. Tên thuốc đánh răng
lạ hoắc chứ không phải Bông Lan như thời tôi nhập ngũ. Hình ảnh của mẹ khi bắt
tay trao quà lại hiện về như mới hôm qua. Cơn hờn giận trào lên, tôi không đợi
mẹ nữa, phi một mạch về núi rồi nằm lì trong hang cho đến khi Quý lên.
* * *
Mẹ lên tìm tôi. Cũng đúng vào dịp
Tết xong, tôi nghe oang oang có giọng người ngoài cửa hang. Cái giọng quen
quen, khuôn mặt của một người đàn ông như đã gặp đâu đó mà không thể nhớ ra. Đi
sau là một người phụ nữ, vất vả trèo lên những bậc đá. Mẹ, đúng là mẹ tôi. Tôi
định ào ra đón mẹ, nhưng nỗi giận hờn lại dìm tôi xuống, khóa chân tay tôi cứng
đờ. Tôi nép vào vách đá như chạy trốn, mặc dù tôi có đứng trước mặt thì mẹ cũng
không thể nhìn thấy tôi.
Người đàn ông kéo mẹ tôi lên
miệng hang, chỉ: “Đây cô ạ. Chính là ở cái hang này. Lúc chúng cháu lên, chỉ
còn toàn đá vụn”.
Tôi đã nhận ra hắn là ai, chính
là tay lính vận tải năm xưa. Người chết không có tuổi, nhưng người sống thì già
đi theo năm tháng.
Bao nhiêu năm rồi nhỉ? Mười năm
kể từ cái đận mẹ đưa tôi về đơn vị để rồi tôi chết nhạt toẹt trong cái hang
này. Mười năm khiến mẹ tôi già sụp đi. Tóc mẹ bạc phân nửa. Động tác của mẹ đã
chậm chạp đi rất nhiều, nhưng vẫn dứt khoát mang dáng dấp của một người phụ nữ
mạnh mẽ và quyết đoán.
Mẹ ngồi lặng lẽ thắp hương. Không
khóc, không sì sụp khấn vái, mắt nhắm lại như thể hóa thạch. Tôi tấm tức khóc
vì vẫn giận mẹ.
Một lúc thì mẹ về. Thằng Quý thấy
tôi như vậy cũng không cười nói hi ha như mọi khi, nó đi ra đi vào mà chẳng
biết làm gì.
Mấy hôm sau Quý bảo: “Chắc là cả
kiếp ma ta ở cái hang này. Chẳng ai biết trong hang này vẫn còn xương cốt của
ta. Mày cứ định như vậy mãi sao? Ra ngoài cho khuây khỏa rồi về thăm nhà đi.
Lấy xe của tao mà đi cho tiện”.
Tôi nghe lời nó. Đi lại thăm bạn
bè, nhưng không về thăm nhà.
Cuối năm ấy mẹ lại lên. Lần này
đi rất đông, đủ cả cánh vận tải đêm xưa lên tìm xác chúng tôi, thêm một tay đại
úy ở ban chính sách của tỉnh đội và một phụ nữ là nhà ngoại cảm.
Người phụ nữ nhắm mắt, lầm bầm
cái gì đó trong miệng rồi bất chợt mở to đôi mắt ra. Tôi nhìn thấy mắt cô ta
mầu xanh lục, sáng quắc như hai cái bóng đèn. Cơ thể của cô ta dần dần biến
đổi, những mạch máu, dây thần kinh trông như búi dây điện. Nội tạng thành những
bảng mạch và bóng đèn nhấp nháy. Cô ta như một cái vô tuyến, hoặc là cái điện
thoại chứ không phải là con người bằng da bằng thịt.
Tôi và Quý ngồi yên một chỗ. Chưa
bao giờ chúng tôi gặp một người kỳ lạ như vậy. Hình như cô ta đã nhìn thấy
chúng tôi. Cô thông báo với mọi người: “Ở đây có hai vong. Trong ngách hang
đằng kia”.
Mọi người nghe vậy nháo nhác.
Cô ta hỏi tôi và Quý:
- Hai vong tên gì?
Tôi bảo:
- Nguyễn Quyết Thắng – Tôi chỉ
sang Quý – Còn thằng này là Nguyễn Đình Quý.
Thằng Quý mắt tròn vo, mồm dẩu ra
vì ngạc nhiên, sợ rúm lại chẳng nói được câu nào.
Cô ta dịch lại lời của chúng tôi
cho mọi người nghe. Mẹ tôi khuỵu xuống bất tỉnh. Tay
đại úy giở sổ ra đọc gì đó, trời lạnh mà mồ hôi vã ra như tắm, gật đầu lia lịa:
“Đúng rồi, đúng rồi”.
Họ bắt đầu đào bới cái ngách hang
bị vùi lấp hơn chục năm. Một lúc sau thì mẹ tôi tỉnh. Mẹ gào lên: “Thắng ơi.
Con ở đâu?” Tôi nói dỗi: “Con không về đâu”. Mẹ lao vào đống đá, dùng tay cào
đá bật cả máu tươi. Mẹ khóc. Lần thứ hai tôi nhìn thấy nước mắt mẹ. Lần đầu lúc
mẹ đánh đổ xe sớm mùng một Tết năm nào. Nhưng khóc thành tiếng thế này thì bây
giờ mới thấy. Mẹ nức nở, không ngớt điệp khúc: “Con không về, mẹ chết không
nhắm được mắt”. Khuôn mặt bà đau đớn, co rúm lại, toàn thân run bần bật khiến
tôi thấy mình thật tàn ác.
Ánh sáng từ mắt của người phụ nữ
ngoại cảm đã tắt. Búi dây điện lại trở thành mạch máu và dây thần kinh. Người
ta không duy trì trạng thái này được lâu vì rất mệt. Cô ta trở về như những
người bình thường và không thể nghe được chúng tôi nữa.
Mẹ ngồi bệt xuống nền đá lạnh,
tựa lưng vào vách hang, đầu ngoẹo sang một bên, thẫn thờ. Tôi ngồi bên cạnh,
ngả hẳn vào mẹ, luồn tay ôm lưng như thời thơ dại. Hình như mẹ cảm nhận được
điều ấy, quờ quờ tay mấy lần tìm tôi. Mặt mẹ đã bớt tái, có chút sắc hồng nhưng
đôi mắt vẫn buồn rười rượi, nhìn vô định xa xăm.
Đến trưa thì họ tìm thấy chúng
tôi. Mẹ lại ngất khi nhìn thấy mảnh giấy có dòng chữ tôi viết tên tuổi, quê
quán, đơn vị, hàn kín bằng ny lông rồi đút vào túi áo ngực trước khi lên hang.
Mẹ bế từng khúc xương tôi vào lòng.
Xương cốt của Quý được tỉnh đội
chuyển về nghĩa trang liệt sỹ. Nó về với anh em dưới ấy nên vui ra mặt. Quý
định diện bộ quần áo chú rể cho sang, nhưng người ta lại mặc cho nó bộ quần áo
khác, mầu đỏ có ngôi sao vàng ở ngực. Nó ngắm nghía bộ cánh mới và cũng thấy
hài lòng.
* * *
Mẹ xin cho tôi về quê. Mẹ đã xây
căn nhà ba gian trên quả đồi nhỏ, ở một vùng quê yên bình, nơi trước kia cả cha
mẹ tôi từng sinh ra và lớn lên. Mẹ cũng đã tìm thấy cha và đưa ông về đây. Tôi
ở gian bên trái, cha tôi ở gian bên phải. Gian giữa đóng khóa im ỉm. Trong
buồng của tôi, mẹ đặt một cái bô tráng men trắng toát. Mẹ vẫn nhớ mong ước của
tôi thiếu thời.
Cha không già hơn tôi là bao
nhiêu. Khi ông chết cũng mới chỉ ngoài hai mươi tuổi. Cha nhìn tôi, vỗ vỗ lên
vai bảo: “Cha rất hiểu con”. Tôi không biết cha hiểu gì. Khi còn sống, chưa bao
giờ tôi được gặp cha. Như đoán được sự nghi hoặc trong ánh mắt tôi. Cha trầm
ngâm, giọng buồn buồn: “Đừng giận mẹ”. Ánh mắt cha lúc này khác hẳn, nồng ấm
yêu thương chứ không hờ hững như trên bức ảnh năm xưa.
Hai cha con nằm ngắm bầu trời dày
đặc sao. Có những ngôi sao sáng quắc, có những ngôi sao lập lòe như sắp tắt,
còn cả những ngôi sao đã tắt mà mắt ma không nhìn thấy, như thể chúng cũng là
những thân phận ở một thế giới khác nữa.
Một thời gian sau thì mẹ tôi mất.
Tôi không bao giờ biết chính xác lý do gì khiến mẹ chết. Đó là bí mật của riêng
mẹ. Cha con tôi đón mẹ về căn buồng giữa.
Mẹ vồ lấy tôi. Chỉ khóc.
Hôm ấy cũng là mười bốn tháng
giêng, trời lạnh căm căm và mưa phùn ẩm ướt.
TTM.