Đi tìm một hướng nghĩ về sử Việt Nam (Vương Trí Nhàn)
Mấy năm nay ở ta có
hiện tượng điểm sử của các học sinh trong các kỳ thi trung học kém một cách
thảm hại. Và nói rộng hơn, lớp trẻ hiện nay ngán các bài sử ở trường đến tận
mang tai, bất đắc dĩ phải học sử, lúc học lên có không biết thi vào trường nào
khác mới chịu thi vào sử.
Tại sao như vậy? Tại sao học sinh kém sử?
Nhiều người nói là
các giáo viên chúng ta không biết dạy. Có người dám viết rằng đã gọi là lịch sử
thì bao giờ cũng nhàm chán khô khan,khó hiểu lặp đi lặp lại. Họ tính chuyện
tăng tính hấp dẫn của môn sử bằng tranh vẽ với lại phim ảnh,bởi tin rằng chỉ
các biện pháp kỹ thuật thật xịn ấy mới giúp cho môn học đỡ ngấy.
Nếu chúng ta biết rằng ở các nước, lịch
sử vẫn được người ta coi là một môn học sinh động và có sức lôi cuốn bậc nhất
với học sinh, thì có thể thấy đầu mối câu chuyện không phải là ở chỗ ấy. Lịch
sử sao lại nhàm chán cho được?!
Việc học sinh và
người dân ở ta ngán sử,theo tôi có nhiều nguyên nhân khác nhau.
Các bài sử được giảng
khô cứng tẻ nhạt thiếu hẳn chi tiết thực tế.Chuyên ngày xưa được kể lại mà cứ
như chuyện ngày. Ngôn từ và cách nói của lịch sử thiếu vắng. Cũng như thiếu hẳn
cảm giác về một thời gian đã qua, vừa xa lạ vừa gần gũi. Thế thì ai mà thích
được ?
Vỏ đã vậy, còn ruột
thì sao? Một môn học chỉ hấp dẫn khi người ta tạo cho người học cảm tưởng ở
trong đó có rất nhiều bí mật, kể cả những chuyện có thực mà không một đầu óc
nào tưởng tượng nổi.Nó mời gọi người ta khám phá, chứng kiến, lý giải.
Cái hồn này của sử ở
ta không có. Ngược lại,người viết sử chỉ cho thấy một thứ lịch sử trên sơ đồ,
lịch sử đã chưng cất phục vụ cho một mục đích giáo dục đúng đắn nhưng quá đơn
điệu.Thí dụ nói đến nhà Trần đánh quân Nguyên chỉ toàn cho thấy mấy lần vua tôi
bàn nhau quyết tâm Sát Thát, nói đến vua Quang Trung chỉ nói đến chiến thắng
Đống Đa Ngọc Hồi …Ở trung học cũng vậy,mà lên đại học cũng vậy.Còn chuyện những
người cầm quân và làm việc nước lúc ấy quan hệ với nhau ra sao,suy nghĩ cụ thể
như thế nào trong hành động,có những chính sách cụ thể ra sao sau chiến thắng –
tương tự như hai mẫu chuyện tôi vừa đọc được – thì không bao giờ cho học sinh
biết và gợi cho chúng cần biết.
Sau khi học qua chục
năm ở trường phổ thông đám trẻ thông minh hiện nay lúc vui đùa thường mang
những công thức mà chúng học được trong các giờ sử ra giễu cợt: nào “có áp
bức có đấu tranh “, nào “tinh
thần yêu nước và căm thù giặc đã tạo nên sức mạnh".
Khi cảm thấy không
được tôn trọng, không cảm thấy cái thiêng liêng trong kiến thức mà vẫn buộc
phải học, người ta không có cách phản ứng nào khác.
Muối mà không mặn còn
gì là muối, sử mà không có cái phập phồng của đời sống con người trong quá khứ,
làm sao gọi là sử được?
Ghi chép của người yêu
sử
Xu thế của con người
là muốn hiểu, muốn biết quá khứ của mình. Con người tìm thấy sự hấp dẫn của Sử
khi từ quá khứ nhận ra những mối liên hệ với ngày hôm nay, thấy ngày hôm nay là
tiếp nối của ngày hôm qua. Tôi cũng vậy, tôi thích sử bởi tôi thấy các vấn đề
xảy ra trong trong lịch sử dân tộc đang đổ bóng vào cuộc sống hàng ngày tôi
đang sống.
Một lần đọc Hà Văn
Tấn tôi thấy ông trích dẫn một câu khá hay của nhà triết học B. Russel, “đọc sử để biết những ngu
xuẩn của quá khứ, nhờ thế người ta có thể chịu đựng tốt hơn những ngu xuẩn của
hiện tại“
Trần Khánh Dư (không
rõ năm sinh, mất năm 1339), thường được biết tới như một trong những công thần
trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Có điều ông cũng rất giỏi tham lam vơ
vét. Khi làm trấn thủ Vân Đồn, tục ở đấy quần áo đồ dùng còn bắt chước người
Trung quốc, ông ra lệnh cho quân không được đội các nón kiểu phương bắc mà phải
đội nón của một làng gần đấy gọi là nón Ma Lôi để phân biệt. Nghe thì có vẻ rất
nghiêm! Có biết đâu,trước đó ông đã sai người nhà mua sẵn nón về bán, mỗi chiếc
giá đắt gần bằng một tấm vải, nhờ thế cũng có được một “chiến công tưng bừng”
trên phương diện kiếm lợi bỏ túi.
Câu chuyện trên không thấy ghi trong các
bộ sử hiện đại, kể cả Việt nam sử lược, tôi chỉ biết được nhờ mấy hôm buồn tình
lấy bộ "Lịch triều hiến chương loại chí" của Phan Huy Chú ra đọc. Đến
khi tìm lại "Đại việt sử ký toàn thư" thấy có thêm một chi tiết có
sức tố cáo mạnh hơn. Có lần người dân đã kiện Trần Khánh Dư đến tận triều đình,
nhưng ông không sợ mà còn công khai tuyên bố: “Tướng là chim ưng, dân lính
là vịt, dùng vịt để nuôi chim ưng có gì là lạ? ”.
Câu chuyện về Trần
Khánh Dư trước tiên mang lại cho tôi một sự an ủi, hoá ra nhiều chuyện đời nay
chỉ là phóng chiếu những chuyện đời xưa.
Về tham nhũng, Đại việt sử
ký toàn thư ghi, không phải đến thời vua Lê chúa Trịnh, mà ngay từ đời Lê Nhân
Tôn (sau Lê Thái Tổ và Lê Thái Tôn, trước Lê Thánh Tôn), tức khi vương triều
thịnh trị, đã có hiện tượng “trên thì tể tướng, dưới thì trăm quan, hối lộ
bừa bãi”.
Về những dễ dãi trong
việc ban quan tước, sách "Lịch triều hiến chương loại chí " của Phan
Huy Chú ghi: “ Triều
Tây Sơn phong tước quá lạm, đến cả phu quét chợ, lính đẩy xe cũng đều trao cho
tước hầu tước bá. Danh khí tồi đến như thế ! Muốn cho khỏi loạn ,có thể được
không ?”.
Chống tham nhũng đang
là vấn đề “nóng”. Tôi đọc sử và phát hiện ra trong lịch sử các triều đình xưa đầy
rẫy chuyện tham nhũng. Từ đời Lê Thái Tổ trở đi đã có tham nhũng rồi. Một trong
những lý do đẻ ra tham nhũng bởi vì lương của quan chức ở ta thời xưa thấp quá,
bù lại, triều đình thả ra cho họ tha hồ kiếm chác ở dân. Hay hiện tượng mua
quan bán chức cũng sớm phổ biến, thời nào cũng có, từ trong các làng xã ngược
mãi lên đến cả triều đình. Tạp chí "Nghiên cứu lịch sử" số ra đầu
2008, có bài nói về ngoại thương thời chúa Trịnh. Hóa ra bản chất của vấn đề y
như bây giờ. Các chúa chỉ tính tới ngoại thương khi yếu quá và muốn lợi dụng
khả năng quân sự của nước ngoài để đánh nhau, chứ không phải vì muốn buôn bán
gì cả. Lúc thì cấm, lúc thì cho phép, lung tung tuỳ tiện. Những người làm ngoại
thương vì xã hội thì ít mà vì chính mình thì nhiều. Các quan chức nghề này
thường lợi dụng việc xuống tàu kiểm tra để xin xỏ. Đọc lại tự nhiên thấy cảm ơn
các nhà viết sử thời xưa và muốn đi tìm để đọc tiếp.
Quan niệm về sử của
chúng ta có vấn đề
Trong số ý kiến ngắn
đăng ở Talawas cuối 2007 , có lá thư của Trần Văn Tích, thống kê số sách vở mất
mát sau cuộc kháng chiến chống nhà Minh.
Đoạn văn có một chi
tiết mà tôi không tìm thấy ở đâu: Khi đưa ra con số này trong "Việt nam sử
lược", cả Trần Trọng Kim cũng chỉ nói người Minh mang về Trung quốc mà
quên đi rằng chính là người nông dân Việt khi vào các kinh thành cũng đã đốt
rất nhiều sách. Trong "Lịch triều hiến chương loại chí ", Phan Huy
Chú đã viết thế.
Chi tiết này gợi cho
tôi mấy ý nghĩ :
1/ Hóa ra không phải đến các nhà viết sử
hiện thời mà cả những Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh cũng có lối viết đổ cả những
kém cỏi trong sự phát triển của xã hội Việt Nam cho người nước ngoài.
2/ Chúng ta có một lối nghĩ về sử khá
quan liêu, tức là bằng lòng với những huyền thoại. Chẳng hạn khi nghiên cứu về
sử thời giặc Minh, ai cũng chỉ nghĩ tới công thức bắt dân ta lên
rừng tìm thú quý, xuống biển mò ngọc châu mà thí dụ Trần Văn Tích nêu ở
trên giúp chúng ta giải huyền thoại này, và chợt nhận ra bao công việc phải làm.
Khi nói về sách vở,
người mình chỉ nghĩ đến văn thơ, tính chung trong số người liệt vào loại danh
nhân đất nước, cứ một trăm người thì phải đến tám chín chục phần trăm. Trong
khi đó, đọc các tài liệu nghiên cứu về Trung Hoa chẳng hạn, thấy trong độ một
trăm danh nhân của họ thì số nhà văn nhà thơ chỉ độ 20%.
Học thuật ở ta không
được chú ý đúng mức. Chúng ta chỉ thích nói chuyện tình cảm, mà không để ý tới
sự nghĩ .
Chúng ta nhìn về quá
khứ giống như một khối mờ mờ. Các giai đoạn lịch sử mới được gọi tên nhiều hơn
là được nhận thức. Con người Việt Nam các thời đại trước đây sống ra làm sao,
đi lại, ăn uống, đọc sách như thế nào? Các đô thị hình thành ra làm sao? Các sứ
thần mang về những cái gì từ Trung Quốc? Các thuyền buôn nước ngoài đến Việt
Nam ra làm sao? Những câu hỏi đó chỉ mới được trả lời sơ sài và nhiều khi
là chưa được ai đề cập tới.
Một trong những lý do
đẻ ra tham nhũng bởi vì lương của quan chức ở ta thời xưa thấp quá, bù lại,
triều đình thả ra cho họ tha hồ kiếm chác ở dân. Hay hiện tượng mua quan bán
chức cũng sớm phổ biến, thời nào cũng có, từ trong các làng xã ngược mãi lên
đến cả triều đình.
Tôi bắt đầu chú ý tới
sử khi muốn tìm hiểu sâu hơn về thực tế đời sống ở VN hôm nay.
Càng đọc lại sử, tôi
càng thấy mình có lỗi. Hóa ra nước mình có mấy bộ sử quý như Đại Việt sử ký
toàn thư, như Đại nam thực lục. Thế mà mang danh là những người cầm bút mấy ai
đã đọc những bộ sử đó.
Nhưng chúng ta chưa
có cái Sử đó. Thường xuyên chỉ có những bức tranh chung chung được đưa ra,
chúng hết sức xa lạ với mối quan tâm hàng ngày của con người đương thời.
Một trình độ cổ lỗ
Đi sâu vào khoa
nghiên cứu lịch sử thấy có quá nhiều chuyện và lý do sâu xa khiến không ai muốn
dạy sử, không ai muốn học sử phải tìm ở đấy.
Chúng ta chỉ nhìn quá
khứ với con mắt vụ lợi. Cái gì có lợi cho mình, ta nhắc lại. Cái gì có vẻ như
không có lợi tức thì, lờ đi. Đó là một thứ chủ nghĩa thực dụng sát mặt đất. Thế
thì làm sao có Sử được ? Không ai muốn nhận nhưng rõ ràng chúng ta không nghiêm
túc trong nhìn nhận quá khứ. Lại rất quan liêu nữa. May lắm thì trong sử chúng
ta đang đọc và dạy nhau hôm nay chỉ có các sự kiện chính trị xã hội. Trong khi
đó Trung Quốc người ta có lịch sử ăn mày, lịch sử thương nhân, lịch sử trang
phục...Ở Đức, người ta nghiên cứu lại cả những đám cưới thời Hitler.Cách hiểu
về quá khứ của ta quá cổ lỗ và đơn điệu. Mình sắp làm phim về Lý Công Uẩn, tôi
ngờ lắm. Chúng ta có biết gì về thời gian đó đâu . Cung điện thời đó ra sao ?
Thành quách thế nào? Con người ăn mặc nói năng ra sao? Không ai biết. Gần đây
nghe nói người ta còn định sang Trung Quốc để thuê ngựa về quay và ông Dương
Trung Quốc đã phải nói ngay là dân ta xưa đâu có sử dụng ngựa nhiều. Từ đây mà
suy ra, thì khi đối diện với cái cuộc sống hiện ra trong phim, ai còn tin được
điều gì.
Hoặc như lịch sử hiện
đại. Hoạt động sưu tầm và quản lý sử liệu quá kém, các kho lưu trữ lại không mở
ra cho các nhà làm sử tham khảo. Các tài liệu phụ trợ như hồi ký thư từ, không
được khai thác, hoặc trong không ít trường hợp là của giả. Nói chung, chúng ta
coi mảng lịch sử đó như một cái gì đã thành, chứ không đặt vấn đề nghiên cứu
tìm hiểu và phát hiện lại. Nói lịch sử chết cứng trong các công thức cũ là với
nghĩa vậy, và việc không có công trình nghiên cứu lịch sử nào ra hồn là chuyện
đương nhiên.
Ngay khối lượng thuần
túy sách vở về sử ở ta đã không đạt yêu cầu. Ở nước ngoài, từng triều đại từng
giai đoạn người ta nghiên cứu nát ra. Còn mình mỗi thứ có được vài ba quyển,
lại trùng hợp nhau chép lẫn của nhau. Gần đây có một thực tế là người nước
ngoài viết về Sử Việt Nam tốt hơn người Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử:
tiếng Hán không biết, tiếng Pháp, tiếng Anh... không biết. Kể cả một số thầy
đầu ngành vài chục năm nay cũng chỉ mài một số hiểu biết cũ ra viết lại. Các
lớp trò sau mỗi ngày kém đi một chút. Hỏi đến học sinh phổ thông, còn được cái
gì?!
Nhận thức về quá khứ
vốn là nhu cầu chính đáng của con người. Làm như hiện nay tức là chúng ta tước
bỏ nhu cầu đó và hướng họ sang những chuyện vô bổ, họ chịu mãi sao được!
( Người giới thiệu : TQS )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét